Thứ bảy, ngày 27 tháng 07 năm 2024

“SKY – I” – KHOA KINH TẾ VẬN TẢI UTH BƯỚC VÀO KỶ NGUYÊN SỐ CÙNG CLB CÁC NHÀ KHOA HỌC TRẺ THÀNH PHỐ

Chiều ngày 12/4/2024, Chương trình “Science Knowledge Youth – Innovation (SKY – I) với chủ đề “Phát triển phong trào Nghiên cứu khoa học và Nâng cao năng lực số cho sinh viên năm học 2023 – 2024” đã được Đoàn TNCS Hồ Chí Minh – Hội Sinh viên Việt Nam Khoa Kinh tế vận tải – trường Đại học Giao thông vận tải TP. Hồ Chí Minh phối hợp với Câu lạc bộ Các Nhà khoa học trẻ TP. Hồ Chí Minh tổ chức tại Hội trường Hội nhập của trường.

Chương trình được tổ chức nhằm tạo môi trường để sinh viên trường Đại học Giao thông vận tải TP. Hồ Chí Minh có thêm kiến thức về có thêm kiến thức về nghiên cứu khoa học và năng lực số trong thời kỳ thế giới đương đại bước vào kỷ nguyên số. Qua đó, sinh viên có thể nâng cao năng lực của bản thân về ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo (AI) để tăng năng suất, hiệu quả trong học tập đặc biệt là trong việc nghiên cứu khoa học cũng như có thể thích nghi và phát triển trong thời đại công nghệ khoa học.

Đ/c Lê Văn Cường – Bí thư Đoàn khoa Kinh tế vận tải – trường Đại học Giao thông vận tải

TP. Hồ Chí Minh phát biểu khai mạc

Chương trình đã thu hút được sự quan tâm tham dự của Ban chủ nhiệm CLB Các nhà Khoa học Trẻ Thành phố; giảng viên Khoa Kinh tế vận tải – trường Đại học Giao thông vận tải TP. Hồ Chí Minh; đơn vị đối tác thuộc Trường Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh; đại diện cơ sở các Đoàn – Hội bạn và thành viên chủ chốt các CLB, đội nhóm trong trường cũng như gần 400 sinh viên trong và ngoài trường.

Tại chương trình, PGS. TS Lê Hoàng An – Phó Trưởng Khoa Kinh tế vận tải – trường Đại học Giao thông vận tải TP. Hồ Chí Minh đã chia sẻ những định hướng học tập và nghiên cứu khoa học Khoa Kinh tế vận tải; thể hiện niềm tin yêu, sự kỳ vọng dành cho sự năng động, sáng tạo và tinh thần học hỏi không ngừng của các bạn sinh viên.

Trong Chương trình, các sinh viên đã được lắng nghe những chia sẻ của ThS. Trần Đức Sự – Phó Giám đốc Trung tâm Phát triển Khoa học và Công nghệ Trẻ trực thuộc Thành Đoàn TP. Hồ Chí Minh, Ủy viên Ban Thư ký Hội Sinh viên Việt Nam TP. Hồ Chí Minh, Phó Chủ nhiệm CLB Các nhà Khoa học Trẻ TP. Hồ Chí Minh và TS. Nguyễn Quang Trung – Thành viên CLB Các nhà Khoa học Trẻ TP. Hồ Chí Minh, Báo cáo viên Chương trình Trí thức Khoa học Trẻ tình nguyện TP. Hồ Chí Minh. Hai diễn giả đã chia sẻ các góc độ của mình về  khai mở tối đa khả năng ứng dụng công nghệ số vào học tập, ứng dụng ChatGPT, các công cụ AI hỗ trợ học tập và đặc biệt là nghiên cứu khoa học. Tạo nên môi trường gặp gỡ, trao đổi uy tín trong cộng đồng nghiên cứu và công nghệ, giúp mở rộng kiến thức và khơi nguồn cảm hứng cho khán giả tham dự.

ThS. Trần Đức Sự thuyết trình

TS. Nguyễn Quang Trung 

Tặng quà cho đại biểu thuyết trình

Tặng quà cho đại biểu thuyết trình

TẤN THÀNH – CLB Các nhà Khoa học Trẻ TP. Hồ Chí Minh

Thái Tài – Gương Sinh viên 5 tốt tốt nghiệp xuất sắc Bách khoa TP.HCM trong 3,5 năm

Thái Tài , sinh viên ngành Khoa học máy tính Trường ĐH Bách khoa TP.HCM đã tốt nghiệp trong 3,5 năm, đạt loại xuất sắc với điểm trung bình 9,38/10, IELTS 8.0, thuộc diện hiếm ở Bách khoa TP HCM. Trong gần 1.000 sinh viên nhận bằng tốt nghiệp hôm 26/4 của Đại học Bách khoa TP HCM, Thái Tài dẫn đầu về điểm trung bình.

Theo thầy Mai Đức Trung, giảng viên khoa Khoa học máy tính, sinh viên Bách khoa học vượt không hiếm, nhưng ít ai học vượt mà vẫn tốt nghiệp loại xuất sắc. Với Tài, đây là quả ngọt sau hành trình kiên trì, bền bỉ.

Là cựu học sinh chuyên Toán trường Phổ thông Năng khiếu, Đại học Quốc gia TP.HCM, Thái Tài đỗ vào Bách khoa bằng cả phương thức ưu tiên xét tuyển, xét điểm thi đánh giá năng lực và điểm thi tốt nghiệp. Nam sinh cho hay ban đầu không nghĩ đến chuyện học vượt, bởi biết chương trình của Bách khoa nổi tiếng khó. Tuy nhiên, khi thấy các anh chị khóa trước học vượt thành công, được nhận thực tập ở tập đoàn lớn, Tài có thêm động lực.

Lưu bản nháp tự động

Đầu năm thứ hai, Tài vạch ra kế hoạch chi tiết để thực hiện. Theo Tài, Bách khoa đòi hỏi sinh viên phải tự học, nghiên cứu nhiều, bên cạnh việc nắm bắt nội dung giảng dạy của thầy cô. Do đã quen cách học này từ thời phổ thông, bạn đánh giá bản thân có thể đáp ứng được.

Mỗi học kỳ, Tài đăng ký thêm vài môn so với kế hoạch đào tạo chung. Thông thường, sinh viên học 4-5 môn một học kỳ, nhưng Tài học 6-7 môn. Nam sinh dồn lịch học vào 3-4 ngày trong tuần, dành các ngày còn lại để tự học, đọc tài liệu chuyên ngành.

Vì lượng bài tập và kiến thức cần ghi nhớ tăng dần, Tài lên danh sách những việc cần làm từ đầu tuần, chia đều cho các ngày và tự tổng kết vào cuối tuần. Trước khi lên lớp, bạn xem bài giảng để nắm sơ lược. Trong giờ học, Tài đặt nhiều câu hỏi để hiểu, nhớ bài ngay trên lớp.

“Em cố gắng hiểu bản chất của vấn đề hơn là nhớ các câu chữ, vì vậy em có thể nhớ được lượng kiến thức nhiều, lâu hơn”, Tài cho hay.

Ở trường Bách khoa, Tài cùng giảng viên nghiên cứu xây dựng Hệ thống phục vụ công tác quản lý quá trình vận chuyển rác thải đô thị. Ngoài ra, Tài thực tập ba tháng ở Viện nghiên cứu VinAI.

Song song đó, Tài tự học thêm tiếng Anh, Đức. Bạn duy trì thói quen học từ vựng mới mỗi ngày, nghe các kênh diễn thuyết của người nước ngoài để cải thiện phát âm và ngữ điệu. Nhờ vậy, Tài thi đạt 8.0 IELTS, riêng kỹ năng Nói được 8.5.

HỘI THẢO KHOA HỌC “AN NINH SINH VIÊN TRONG THỜI KỲ CHUYỂN ĐỔI SỐ”: NÂNG CAO NHẬN THỨC CÁC MỐI ĐE DỌA AN NINH TRONG MÔI TRƯỜNG SỐ CHO SINH VIÊN

Ngày 07/11/2023, Trung tâm Phát triển Khoa học và Công nghệ Trẻ trực thuộc Thành Đoàn TP. Hồ Chí Minh phối hợp trường Đại học An ninh Nhân dân tổ chức Hội thảo khoa học “An ninh sinh viên trong thời kỳ chuyển đổi số” nhằm góp phần đa dạng các phương thức tuyên truyền, giáo dục về tầm quan trọng của an ninh sinh viên trong thời kỳ chuyển đổi số cũng như chia sẻ công nghệ và các giải pháp an ninh sinh viên.

Hình ảnh toàn thể Hội thảo

Tham dự Hội thảo có Thiếu tướng – Tiến sĩ Đoàn Minh Lý – Hiệu trưởng Trường Đại học An ninh Nhân dân; Đại tá, Phó Giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn Trần Hiếu – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học An ninh Nhân dân; Thượng tá – Tiến sĩ Ngô Bích Thủy – Phó Trưởng Phòng Cục An ninh nội địa Bộ Công an; đồng chí Đoàn Kim Thành – Giám đốc Trung tâm Phát triển Khoa học và Công nghệ Trẻ và các nhà khoa học là chuyên gia, giám khảo tham gia chấm các báo cáo tại Hội thảo.

Tặng thư cảm ơn cho Giám khảo

Hội thảo đã diễn ra trong 03 phiên làm việc là phiên hội thảo toàn thể, phiên trình bày poster, phiên báo cáo tham luận.

Trong phiên hội thảo toàn thể, Thượng tá – Tiến sĩ Ngô Bích Thủy – Phó Trưởng Phòng Cục An ninh nội địa Bộ Công an đã trình bày báo cáo chỉ rõ cách nhận diện hoạt động tác động, lôi kéo thanh niên, sinh viên qua không gian mạng của các tổ chức phản động và trao đổi một số hoạt động phức tạp của người có ảnh hưởng trên không gian mạng (KOL) thời gian qua. Đại tá, Phó Giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn Trần Hiếu, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học An ninh nhân dân khẳng định “Xu hướng chuyển đổi số đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ, có tác động tích cực lẫn tiêu cực. Điều này đòi hỏi chúng ta phải liên tục nâng cao trình độ để đảm bảo an toàn, phòng chống tội phạm trên không gian mạng, nhất là phòng chống tội phạm thường tấn công sinh viên như tội phạm ma túy, mại dâm, lừa đảo trực tuyến”

Thượng tá – Tiến sĩ Ngô Bích Thủy – Phó Trưởng Phòng Cục An ninh nội địa Bộ Công an là diễn giả trình bày báo cáo

Đại tá, Phó Giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn Trần Hiếu, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học An ninh nhân dân phát biểu

Trong phiên báo cáo tham luận, có 06 tham luận thuộc về các poster xuất sắc trong phiên trình bày poster đã được chọn báo cáo thuyết trình trước Hội đồng. Hội đồng đã lắng nghe và trao tặng các giải thưởng, trong đó một trong hai Giải Nhất đã được trao tặng cho sinh viên Trần Lê Trọng Văn – Thủ khoa đầu vào Trường Đại học Kinh tế – Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh năm 2022, với đề tài “Nâng cao năng lực của sinh viên trong việc ứng phó với các rủi ro từ công nghệ Deepfake”.

Thuyết trình poster trong phiên trình bày poster

Thuyết trình poster trong phiên trình bày poster

Thuyết trình poster trong phiên trình bày poster

Thuyết trình poster trong phiên trình bày poster

Trình bày tham luận trong phiên báo cáo tham luận

Trình bày tham luận trong phiên báo cáo tham luận

Trình bày tham luận trong phiên báo cáo tham luận

Trao tặng Giải thưởng của Hội thảo

Trao tặng Giải thưởng của Hội thảo

Trao tặng Giải thưởng của Hội thảo

Trao tặng Giải thưởng của Hội thảo

Được biết, Hội thảo khoa học “An ninh sinh viên trong thời kỳ chuyển đổi số” được tổ chức nhằm xây dựng môi trường giao lưu, chia sẻ giữa các nhà khoa học trẻ, các chuyên gia, doanh nghiệp trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội nhằm nâng cao nhận thức về các mối đe dọa an ninh trong môi trường số, tạo một sự hiểu biểu chung về tầm quan trọng của việc bảo vệ thông tin cá nhân, an toàn trực tuyến.

Đồng thời, Hội thảo cũng là dịp tạo môi trường thúc đẩy hoạt động trao đổi, gặp gỡ giữa sinh viên, giảng viên, nhân viên cùng với các chuyên gia an ninh, góp phần xây dựng mối quan hệ hợp tác, tiến tới hình thành mạng lưới đội ngũ hệ thống các dự án nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực an ninh sinh viên.

Sau 02 tháng triển khai, Ban Tổ chức đã nhận về 88 bài tham luận của 177 tác giả, từ 28 đơn vị, là các trường Đại học, Học viện, doanh nghiệp và viện nghiên cứu trong và ngoài TP. Hồ Chí Minh

HỮU AN, ANH ĐÀO (BIÊN TẬP)

Nguồn hình ảnh: Trung tâm Phát triển Khoa học và Công nghệ Trẻ

Nguồn nội dung: Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Thanh niên Online,

Sinh viên Việt Nam Online, Người Lao Động Online.

DIỄN ĐÀN KHOA HỌC SINH VIÊN QUỐC TẾ LẦN 7 NĂM 2023 (ISSF 2023): GÓP PHẦN PHÁT HUY VAI TRÒ SINH VIÊN VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ

Diễn đàn khoa học sinh viên quốc tế lần 7 năm 2023 (ISSF 2023)

Diễn đàn Khoa học Sinh viên Quốc tế lần 7 năm 2023 (ISSF 2023) với chủ đề “The role of youth in digital transformation” – “Vai trò của thanh niên trong chuyển đổi số” được Hội Sinh viên Việt Nam TP. Hồ Chí Minh, Trung tâm Phát triển Khoa học và Công nghệ Trẻ Thành Đoàn, Sở Khoa học và công nghệ TP. Hồ Chí Minh, Tổng lãnh sự quán Indonesia tại TP. Hồ Chí Minh, Hội Hữu nghị Việt Nam – Đông Nam Á TP. Hồ Chí Minh, Trường Đại học Quốc tế, ĐHQG-HCM, Viện Đào tạo quốc tế ISB – Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM, Trường Đại học Hoa Sen tổ chức từ ngày 28/8 – 08/10/2023, trong đó các hoạt động chính diễn ra từ ngày 06/10 – 08/10/2023.

Diễn đàn là hoạt động thiết thực nhằm cụ thể hóa việc thực hiện chương trình công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi Thành phố năm 2023 với “Năm chuyển đổi số các hoạt động của Đoàn” và thiết thực chào mừng Đại hội Đại biểu Hội Sinh viên TP. Hồ Chí Minh lần thứ VII và Đại hội Đại biểu toàn quốc Hội Sinh viên Việt Nam lần thứ XI, nhiệm kỳ 2023 – 2028.

Diễn đàn là một hoạt động nhằm tạo môi trường giúp Hội viên, sinh viên Thành phố trau dồi, nâng cao năng lực sử dụng ngoại ngữ và kỹ năng thực hành xã hội, chủ động hội nhập quốc tế để trở thành công dân toàn cầu. Diễn đàn cũng là hoạt động nhằm kết nối, tạo môi trường giao lưu, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm về các vấn đề học thuật, sáng tạo, nghiên cứu khoa học giữa sinh viên TP. Hồ Chí Minh nói riêng, sinh viên cả nước nói chung với sinh viên các trường Đại học trên thế giới, qua đó góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trẻ.

Sau gần 02 tháng triển khai, Diễn đàn đã thu hút 207 sinh viên đăng kí gửi bài tham luận, qua vòng phỏng vấn, Ban tổ chức đã xét chọn 100 đại biểu chính thức của 37 trường Đại học đến từ 10 quốc gia tham dự Diễn đàn, cụ thể: Canpuchia (05), Ấn độ (01), Indonesia (20), Lào (02), Malaysia (05), Myanmar (01),  Philippines (18), Singapore (02),  Thái Lan (8), và Việt Nam (38). Bên cạnh đó, tại các phiên của diễn đàn dự kiến thu hút khoảng hơn 500 sinh viên các trường cùng tham gia dự thính, tương tác, trao đổi.

Lễ khai mạc Diễn đàn được tổ chức tại Hội trường Viettel Complex Tower vào sáng ngày 07/10/2023 với sự tham dự của đồng chí Nguyễn Minh Triết – Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đoàn, Chủ tịch Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam; đồng chí Nguyễn Phước Lộc – Phó Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Thành ủy TP. Hồ Chí Minh; đồng chí Phan Thị Thanh Phương – Thành ủy viên, Bí thư Thành Đoàn TP. Hồ Chí Minh Tổng Lãnh sự Cộng hòa Indonesia, Malaysia tại TP. Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nam – Đông Nam Á TP. Hồ Chí Minh,…

Toàn thể Lễ khai mạc Hội nghị

Tặng hoa và thư cảm ơn các đơn vị tham gia tổ chức

Diễn đàn gồm 02 phiên, trong đó phiên toàn thể là phần chia sẻ về những nghiên cứu mới nhất của PGS.TS Chandra Setiawan – Giảng viên cao cấp, Nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Tổng thống (President University) Indonesia và TS. Ngô Công Khánh, Viện Đào tạo Quốc tế (ISB), Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.

Phần chia sẻ của TS. Ngô Công Khánh – Viện (ISB), Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh

Ở phiên báo cáo poster, các đại biểu sẽ trình bày tóm tắt tham luận bằng poster tương ứng với các tiểu ban:

(1) Tiểu ban “Thanh niên với các giải pháp công nghệ thúc đẩy chuyển đổi số”  (Tại toà nhà Viettel Complex Tower)

(2) Tiểu ban “Chuyển đổi số trong giáo dục, y tế, môi trường” (Tại Trường Đại học Hoa Sen, cơ sở Nguyễn Văn Tráng – Quận 01)

(3) Tiểu ban “Nâng cao năng lực số cho thanh niên” (Tại trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh, cơ sở Quận 01)

Cạnh đó, trong khuôn khổ diễn đàn, đại biểu được tham quan Hội trường Thống Nhất, Bảo tàng Hồ Chí Minh Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, Chợ Bến Thành…, được trải nghiệm tham quan TP. Hồ Chí Minh bằng buýt trên sông Sài Gòn và xe buýt hai tầng.

Những kỳ vọng vào vai trò của người trẻ, sinh viên Việt Nam và thế giới trong bối cảnh chuyển đổi số

Trong công tác tổ chức Diễn đàn, Diễn đàn đã trở thành một hoạt động hưởng ứng Ngày chuyển đổi số quốc gia 10/10 và Tuần lễ Chuyển đổi số Thành phố Hồ Chí Minh 2023. Thông qua Diễn đàn, Ban Tổ chức Diễn đàn mong muốn tạo môi trường giao lưu, trao đổi, giữa sinh viên Thành phố và sinh viên quốc tế đang học tập, sinh sống tại Việt Nam về nâng cao nhận thức và phát huy vai trò xung kích, đón đầu của thanh niên trong chuyển đổi số gắn với thực hiện Chiến lược Quốc gia về phát triển kinh tế số – xã hội số năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 của Thủ tướng Chính phủ; tham gia nghiên cứu, phát triển một số công nghệ cốt lõi, công nghệ mới phục vụ học tập và đời sống.

Và đặc biệt, trong Lễ khai mạc Diễn đàn, những thông điệp về mục đích của Diễn đàn đã được đồng chí Dương Anh Đức – Thành ủy viên, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh và đồng chí Trần Thu Hà – Phó Bí thư Thành Đoàn, Chủ tịch Hội Sinh viên Việt Nam TP. Hồ Chí Minh thể hiện trong bài phát biểu, qua đó bày tỏ sự kỳ vọng vào thế hệ trẻ, mà trực tiếp là lực lượng sinh viên, phát huy vai trò của mình trong bối cảnh chuyển đổi số.

Theo đồng chí Dương Anh Đức – Thành ủy viên, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố: “Với các bạn sinh viên, thanh niên, các bạn có ưu thế, tức là có điều kiện tiếp cận và ứng dụng công nghệ nhanh chóng hơn các thế hệ đi trước, vừa trở thành một công dân số, người tiêu dùng số và người sáng tạo số. Nhận thức đúng vai trò, vị trí của thanh niên và sinh viên trong chuyển đổi số là một việc rất quan trọng. Các bạn là tương lai của đất nước, sẽ là những người dẫn dắt chúng ta vào thế hệ số. Vì vậy, tôi mong muốn và khuyến khích tất cả các bạn trẻ, trong đó các bạn sinh viên đang hiện diện tại nơi đây tích cực học hỏi, nghiên cứu và tham gia vào quá trình này và hãy trở thành chủ thể tích cực trong công cuộc chuyển đổi số của mỗi quốc gia. Hãy làm cho quốc gia của các bạn ngày càng phát triển thịnh vượng trong thời đại số hóa. Hy vọng rằng Diễn đàn lần này sẽ là một nơi thúc đẩy trao đổi kiến thức, tạo cơ hội học hỏi và đưa ra những ý tưởng đột phá”.

Đồng thời, đồng chí Dương Anh Đức cũng khẳng định: “Lãnh đạo UBND Thành phố đánh giá cao nỗ lực của Hội Sinh viên Việt Nam Thành phố, Trung tâm Phát triển Khoa học và Công nghệ trẻ trong việc sáng kiến và duy trì sân chơi bổ ích này. Trong thời gian tới, cùng với việc đầu tư, mở rộng, nâng tầm diễn đàn, lãnh đạo Thành phố kỳ vọng sẽ tiếp tục có thêm những hoạt động trao đổi, liên kết, giao lưu về mặt học thuật, nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo trong thanh niên, sinh viên TP.HCM với thanh niên, sinh viên các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.”

Đồng chí Dương Anh Đức phát biểu

Phát biểu khai mạc diễn đàn, đồng chí Trần Thu Hà – Phó Bí thư Thành đoàn, Chủ tịch Hội Sinh viên Việt Nam TP. Hồ Chí Minh cũng đã nhấn mạnh rằng Ban Tổ chức mong muốn diễn đàn không chỉ dừng lại ở việc trao đổi học thuật chất lượng mà còn thể hiện một cách mạnh mẽ tiếng nói thông điệp của người trẻ: “Chúng ta, chúng tôi là chủ thể sáng tạo của công cuộc chuyển đổi số của mỗi quốc gia. Hãy tin tưởng và trao quyền cho chúng tôi vì sự phát triển bền vững và tiến bộ của quốc gia, của xã hội.”

Đồng chí Trần Thu Hà phát biểu

 

HỮU AN & THÙY TRANG (BIÊN TẬP)

Nguồn: Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Tạp chí Thanh niên Việt Online,

trang thông tin điện tử Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Sinh viên Việt Nam Online,

trang thông tin điện tử Thành Đoàn TP. Hồ Chí Minh, Đài Truyền hình TP. Hồ Chí Minh,

Tuổi trẻ Online, Người lao động Online.

TOÀN CẦU HÓA VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA THANH NIÊN VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ

Tóm tắt: Thanh niên là nhóm xã hội đặc biệt giữ vai trò ngày càng trở nên quan trọng với sự phát triển của xã hội. Việc kiến tạo bản sắc thanh niên đáp ứng nhu cầu của nhóm xã hội này và nhu cầu của lịch sử càng cần phải được nghiên cứu. Trên cơ sở phân tích các khảo sát tình hình thanh niên giai đoạn 1996 – 2021, bài viết không chỉ đưa ra hệ giá trị do thanh niên Việt Nam hiện nay kiến tạo là tính năng động, nhạy bén, thân thiện, trọng đạo lý, tinh thần trách nhiệm, yêu nước, nhân ái, trọng thể diện, tính bảo thủ, sùng ngoại, thực dụng và bè phái, mà còn cho rằng các thiết chế xã hội cần tạo điều kiện để xây dựng thành công các sản phẩm văn hóa trên tất cả các lĩnh vực chịu ảnh hưởng bởi chuyển đổi số, sử dụng hệ thống nền tảng giao thức kĩ thuật số kết hợp các hình thức chuyển tải thông tin truyền thống của Việt Nam để phát huy hiệu quả những giá trị tích cực và hạn chế những phi giá trị phái sinh,.

Từ khóa: bản sắc, toàn cầu hóa, thanh niên, trí thức trẻ, Việt Nam.

Abstract: Youth is a special social group that plays a role become increasingly important in the sustainable development of society. The construction of youth identity meets the needs of the group itself and the requirements of history need to be studied more thoroughly. On the basis of the analysis of surveys on youth situation in the period 1996-2021, the article proposes the value system created by Vietnamese youth today. That value system is dynamism, sensitivity to the times, friendliness, moral respect, sense of responsibility, patriotism and compassion, respect for face, conservatism, and foreign devotion, pragmatism and factionalism. The topic also comes to the conclusion that, in order to effectively promote positive values, and limit non-derivative values, socio-cultural institutions need to create conditions to successfully build cultural products in all fields affected by digital transformation, using a system of social networking platforms combining forms of Vietnamese traditional information transmission.

Keywords: Identity, globalization, youth, young intellectuals, Vietnam.

 

Đặt vấn đề

Việt Nam đang trong giai đoạn thực hiện đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số trên hầu khắp các lĩnh vực. Trong quá trình chuyển đổi số đó, thanh niên là lực lượng nòng cốt, nắm giữ vai trò trọng yếu, quyết định đến kết quả của quá trình này tại Việt Nam. Đây không chỉ là việc học tập phương châm “Con người là nguồn tài nguyên quan trọng nhất” từ Nhật Bản, mà còn là sự vận dụng, kế thừa quan điểm “Người ta là hoa đất” từ truyền thống dân tộc Việt Nam. Trong vòng khoảng 25 năm qua, các nghiên cứu về thanh niên ở Việt Nam đã được nhiều nhà nghiên cứu triển khai dưới các góc độ tiếp cận khác nhau. Trong đó, hai góc độ tiếp cận đạt được nhiều kết quả nghiên cứu nhất là tâm lý học và xã hội học. Hầu như chưa có một bài viết hay công trình độc lập nào nghiên cứu tác động của quá trình toàn cầu hóa đối với tiến trình kiến tạo bản sắc của thanh niên Việt Nam, từ đó, phát hiện những điểm mạnh, điểm yếu của thanh niên Việt Nam và luận giải chúng một cách có hệ thống, logic và khoa học theo một lý thuyết văn hóa học cụ thể. Vì vậy, thông qua bài viết này, tác giả mong muốn góp phần cung cấp cứ liệu, luận điểm khoa học cho việc nhận diện bản sắc thanh niên Việt Nam một cách có hệ thống, logic, khoa học nhằm phát huy hiệu quả hơn vai trò của thanh niên Việt Nam từ góc độ khoa học, cụ thể là góc độ văn hóa học.

Khái luận về toàn cầu hóa

Toàn cầu hóa là quá trình tăng lên mạnh mẽ các mối liên hệ, ảnh hưởng, tác động lẫn nhau giữa các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội của các quốc gia-dân tộc trên thế giới trong quá trình vận động và phát triển [1, tr.27]. Trong lịch sử, toàn cầu hóa gắn liền với những phát kiến địa lý, con đường tơ lụa, giao thương, giao lưu – tiếp biến văn hóa hậu kì trung đại. Từ thế kỷ XV trở đi, toàn cầu hóa gắn liền với các cuộc cách mạng bao gồm cuộc cách mạng công nghiệp (cuối thế kỷ XVIII), cách mạng khoa học – kĩ thuật (cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX), cách mạng khoa học – công nghệ (giữa thế kỷ XX) và cách mạng kĩ thuật số (cuối thế kỷ XX) xuất phát từ các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây. Quá trình toàn cầu hóa là quá trình biện chứng tất yếu của sự phát triển văn minh nhân loại, là sự phát triển mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các hệ thống văn hóa – văn minh nhân loại giữa quá khứ – hiện tại và tương lai [2, tr.03]. Vì vậy, toàn cầu hóa tạo nên vô số mối liên hệ giữa các xã hội tạo nên hệ thống kết nối thế giới. Các sự kiện, hoạt động ở bất kỳ nơi nào cũng có thể để lại dấu ấn, di sản, ảnh hưởng, tác động đối với các cá nhân và cộng đồng khác ở địa cầu [1, tr.123]. Việc tìm ra phát kiến địa lý, con đường thương mại biển vòng quanh thế giới Đông-Tây đã đem lại địa bàn hoạt động mới cho chủ nghĩa tư bản lợi dụng thế và lực tích lũy tư bản và đi tới quá trình thực dân hóa, khai thác thuộc địa, gia tăng trao đổi hàng hóa và đem lại cho công – thương nghiệp sự phát triển chưa từng có [3, tr.597-598]. Như vậy, toàn cầu bắt nguồn từ sự phát triển mạnh mẽ nhu cầu của nền kinh tế và khoa học kỹ thuật tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa tư bản đã để lại dấu ấn sâu đậm trong quá trình toàn cầu hóa 500 năm qua [4, tr.257]. Chủ nghĩa tư bản hiện diện khắp nơi và thiết lập nên những mối liên hệ phổ biến, làm cho những ngành công nghiệp dân tộc bị thay thế bởi những ngành công nghiệp đe dọa sự sống còn của văn hóa – văn minh các dân tộc, địa phương, sự phụ thuộc giữa các dân tộc, địa phương ngày càng phát triển đến mức phổ biến [3, tr.601-602]. Đồng thời, chính sự phát triển của khoa học kĩ thuật đã đẩy toàn cầu hóa lên trên tất cả các mặt giữa các quốc gia. Các quốc gia dù muốn hay không đều chịu tác động của toàn cầu hóa, vì vậy, để tồn tại và phát triển, không thể không tham gia quá trình hội nhập toàn cầu hóa [5, tr.24]. Nhìn chung, toàn cầu hóa là quá trình thay đổi phức tạp về kinh tế – văn hóa – xã hội, mà ở đó, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng do sự tương tác và hội nhập ngày càng tăng giữa các cá nhân ở khoảng cách quyền lực và khoảng cách địa lý lớn [6, tr.81]. Các cấu trúc văn hóa bị biến đổi ngày càng mạnh mẽ do tác động của toàn cầu hóa. Chính vì vậy, xu hướng ly khai, ly tâm văn hóa và xung đột văn hóa cũng ngày càng trở nên phong phú, phức tạp theo tốc độ gia tăng mạnh mẽ của những làn sóng văn hóa từ các quốc gia phát triển, các quốc gia tư bản chủ nghĩa hiện đại, các quốc gia sở hữu ngành công nghiệp văn hóa khổng lồ đi cùng với tham vọng bá chủ toàn cầu. Đó cũng chính là hệ quả của việc “Sự hiện diện khắp nơi của những nhãn hiệu công nghiệp truyền thông – giải trí lớn nhất hiện nay đang thiết lập nên những chuẩn mực xã hội mới từ Á đến Âu, từ châu Phi đến châu Mỹ. Những cuộc tấn công mạnh mẽ đó về văn hóa không chỉ đe dọa tính đa dạng văn hóa mà còn khiến đại chúng đứng trước nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa của dân tộc” [7, tr.05]. Bên cạnh đó, vấn đề ưu thế của việc văn hóa các nước lớn, các nước giàu có khả năng phát triển công nghiệp văn hóa tầm cỡ thế giới được phổ biến trên mọi nền tảng truyền thông đại chúng, mạng xã hội cũng là nguy cơ dẫn tới “sự đứt gãy truyền thống và hiện đại của các nước đang phát triển. Các ngôn ngữ, truyện ngụ ngôn, truyện cổ tích, sản phẩm văn hóa của các dân tộc nhỏ, yếu thế chỉ còn được sử dụng trong sinh hoạt. Theo thời gian, thế hệ trẻ không thích tiếng mẹ đẻ, sẽ hoàn toàn từ bỏ tiếng nói của ông cha. Từ đó, văn hóa của các dân tộc nhỏ, yếu thế cũng sẽ dần dần biến mất” [8, tr.07]. Nhìn chung, có thể nói “toàn cầu hóa đã không thỏa mãn khát vọng có được công ăn việc làm tử tế và tương lai cho con cái của phần đông đại chúng. Một số lượng lớn lao động vẫn phải gánh chịu ảnh hưởng bất lợi của toàn cầu hóa ngay trong những quốc gia phát triển công nghiệp truyền thông – giải trí và công nghiệp văn hóa. Cách mạng khoa học kĩ thuật, cách mạng khoa học công nghệ ngày càng khoét sâu khoảng cách bất cân xứng mang tính toàn cầu không thể chấp nhận và cũng không thể duy trì được này” [9, tr.10].

Đặc điểm bản sắc văn hóa thanh niên Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số

Thanh niên là nhóm xã hội đặc biệt có quan hệ gắn bó mật thiết với mọi giai tầng và mọi hoạt động xã hội và giữ vai trò quyết định sự phát triển của xã hội [10, tr.14]. Một mặt, toàn cầu hóa tạo cơ hội thuận lợi cho quá trình tiếp xúc, giao lưu – tiếp biến văn hóa giúp thanh niên tiếp thu ảnh hưởng, tinh hoa văn hóa nhân loại, mặt khác, toàn cầu hóa cũng là chất xúc tác quan trọng đẩy nhanh quá trình đào thải những yếu tố truyền thống không phù hợp với nhu cầu của lực lượng thanh niên tham gia cách mạng khoa học kĩ thuật số. Tuy nhiên, toàn cầu hóa cũng tạo ra những bẫy văn hóa không ngừng làm phai nhạt, mai một dần các giá trị tích cực từng được cha ông vun đắp, từ đó nảy sinh xu hướng văn hóa tiêu cực, đồi trụy, phản động, bi quan trong thanh niên với những đặc điểm tính cách văn hóa như thờ ơ, ích kỷ, bạo lực, lạnh lùng, thực dụng. Đây cũng chính là một bộ phận, kênh tác động quan trọng trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch nhằm truyền bá văn hóa sai lệch, lệch chuẩn, độc hại, phi văn hóa, phản văn hóa. Theo đề tài nghiên cứu khoa học “Sự lựa chọn giá trị đạo đức – nhân văn trong định hướng lối sống của thanh niên”, nhìn chung, các thế hệ thanh niên Việt Nam đều có và đánh giá cao tính năng động, tự tin, trách nhiệm, yêu nước, nhân ái, tự trọng, sáng tạo, lạc quan, can đảm và khoan dung [11, tr.91]. Trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay, văn hóa truyền thông (mass culture, media culture), văn hóa đại chúng (pop culture) cũng là những kênh tác động mềm có sức thu hút đáng kể sự quan tâm của thanh niên, tạo điều kiện thúc đẩy không chỉ giao lưu – tiếp biến văn hóa, giao lưu kinh tế, giao lưu tri thức khoa học kĩ thuật công nghệ, mà cũng đồng thời thúc đẩy các hiện tượng bạo lực mạng, phản văn hóa, phi văn hóa trực tuyến, từ đó gây ra bức tranh biến động giá trị mạnh mẽ trong thanh niên Việt Nam, tạo thành những mảng màu ngày càng phức tạp. Quan hệ tiếp xúc, giao lưu – tiếp biến văn hóa trong thời đại toàn cầu hóa cũng chịu ảnh hưởng đáng kể bởi tương quan sức mạnh tổng thể quốc gia trên trường quốc tế, từ đó có thể trở thành nguy cơ đe dọa chủ quyền thống nhất toàn vẹn của bất kỳ chủ thể quốc gia nào trong quan hệ quốc tế. Với vai trò rường cột tương lai của đất nước, nhận thức của thanh niên vì vậy càng cần phải được nâng cao, tránh những ảnh hưởng tiêu cực, bẫy văn hóa từ chiến lược “diễn biến hòa bình” của các quốc gia có sức mạnh tổng hợp quốc gia lớn, có chiến lược quảng bá hình ảnh văn hóa một cách bành trướng, thâm độc, cực đoan, kích động bạo lực, xung đột.

Toàn cầu hóa và tình hình bản sắc văn hóa thanh niên Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số

Đặc điểm chính của thanh niên Việt Nam là trong độ tuổi từ 14 đến 35, chiếm khoảng 27% dân số cả nước [12, tr.21], trong đó quá nửa thanh niên Việt Nam là nam giới (Báo cáo quốc gia về thanh niên Việt Nam, 2015), tuyệt đại đa số sinh sống và xuất thân từ khu vực nông thôn [13, tr.267], và khu vực đồng bằng, chỉ có chưa đầy 10% thanh niên Việt Nam là công nhân trình độ cao đằng – đại học [14, tr.167], ngoài ra, chưa đầy 7% thanh niên Việt Nam là sinh viên các trường đại học – cao đẳng, 0,7% thanh niên Việt Nam là trí thức trẻ có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ [14, tr.92]. Như vậy, chủ thể kiến tạo bản sắc thanh niên Việt Nam trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay chủ yếu vẫn là nam thanh niên trong độ tuổi 14 đến 35 ở các tỉnh thành thuộc khu vực đồng bằng, nông thôn. Chính vì chủ thể chủ yếu là nam thanh niên, lại đến từ khu vực đồng bằng thuận lợi cho quá trình tiếp xúc, giao lưu – tiếp biến tinh hoa văn hóa nhân loại hơn so với các đối tượng khác ở miền núi và so với nữ thanh niên (do nam thanh niên ở vùng núi thường khó có điều kiện tiếp xúc với ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai, và bản thân môi trường vùng núi cũng không phải là môi trường thuận lợi để khơi dậy tính mở, tính năng động được sinh ra do quá trình tiếp xúc, giao lưu-tiếp biến văn hóa một cách thường xuyên, còn nữ thanh niên cũng ít có điều kiện tiếp xúc với những biến động giá trị, ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai vì họ bị cột chặt và gắn nhãn bởi định kiến xã hội phổ biến là phái yếu, là chủ nhân của tổ ấm gia đình, giữ lửa trong bếp của gia đình, là tay hòm chìa khóa của gia đình, v.v.), nên có thể thấy bản sắc thanh niên Việt Nam được hình thành từ cái gốc dương tính, trọng động, hướng ngoại, vừa năng động, nhạy bén, dễ dàng tiếp nhận cái mới, vừa dễ bị thay đổi không theo chiều hướng nhất định. Song cũng vì chủ thể chính là nam thanh niên ở khu vực đồng bằng, nông thôn nên chất âm tính của văn hóa nông thôn vẫn gặp phải sự biến động, đứt gãy thậm chí là xung đột giá trị khi tiếp xúc, giao lưu – tiếp biến ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, văn hóa đô thị vốn mang chất thiên về dương tính (do nam thanh niên ở vùng nông thôn đồng bằng vẫn chịu sự chi phối bởi văn hóa truyền thống, văn hóa làng xã đáng kể hơn so với nam thanh niên ở vùng đô thị, vì vậy, tính bảo thủ, muốn lưu giữ truyền thống sẽ mạnh hơn, sức phản kháng với văn hóa ngoại lai cũng sẽ thường mạnh hơn so với nam thanh niên ở vùng đô thị, do đó, mức độ xung đột do va chạm với ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai cũng sẽ thường cao hơn so với ở đối tượng là nam thanh niên tại đô thị).

Trong khi báo cáo của [15] chỉ ra 6 giá trị đặc trưng cho bản sắc thanh niên Việt Nam hiện nay là nhân ái, yêu nước, tự tin, năng động, thực dụng và có chí tiến thủ; kết quả nghiên cứu của [16] chỉ ra các giá trị đặc trưng của thanh niên Việt Nam là thực dụng, tự tin, có trách nhiệm, độc lập tự chủ và bảo thủ. Trong đó, tác giả [16] đã lý giải sự hiện diện của tính bảo thủ ở thanh niên Việt Nam là do cơ chế tổ chức quản lý xã hội ở nông thôn với mạng lưới xã hội chuẩn tắc chặt chẽ hơn, gắn bó lâu đời hơn, và dư luận xã hội, tính cộng đồng cũng phát triển hơn, do đó lâu dần hình thành tính bảo thủ đối lập với tính cởi mở, dễ dàng dung hợp thậm chí hòa tan ở cộng đồng thanh niên khu vực đồng bằng, đô thị. Đối với [17], hệ giá trị văn hóa đặc trưng của thanh niên Việt Nam lại là chủ nghĩa cá nhân, tính tự tin, tính tự chủ, và nhân ái. Nhóm tác giả [18] lại cho rằng yêu nước, nhân ái, dũng cảm, thân thiện, trọng đạo lý, thực dụng, bè phái, tự tin mới là hệ giá trị văn hóa đặc trưng của thanh niên Việt Nam. Trong đó, theo lý giải của nhóm tác giả [18], thực dụng, bè phái là hệ quả tất yếu của loạt biến động giá trị xảy ra trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam, loạt biến động giá trị đó đã được [19] chỉ ra là chuyển từ duy tình sang duy lý, chuyển từ chủ nghĩa tập thể sang chủ nghĩa cá nhân, chuyển từ chiến lược sang chiến thuật, quản lược, và chuyển từ ỷ lại, dựa dẫm sang năng động, tự tin. Trước đó, [20] và [21] cũng đã chỉ ra hệ giá trị đặc trưng của thanh niên Việt Nam là trọng đạo lý, có trách nhiệm, có chí tiến thủ, nhạy bén với thời cuộc và năng động.

Bảng 1. So sánh – đối chiếu hệ giá trị văn hóa của thanh niên Việt Nam hiện nay

Nguồn: tác giả tự tổng hợp

Đặng Vũ Cảnh Linh (2022) Nguyễn Tuấn Anh (2018) Trương Thị Khánh Hà (2015) Nguyễn Ngọc Thiện – Từ Thị Loan (2021) Viện Nghiên cứu Thanh niên (2009) – Nguyễn Phước Lộc (2010)
-nhân ái

-yêu nước

-tự tin

-năng động

-thực dụng

-chí tiến thủ

 

-độc lập

-tự tin

-trách nhiệm

-thực dụng

-bảo thủ

-nhân ái

-độc lập

-tự tin

-thực dụng

 

-nhân ái

-yêu nước

– tự tin

-thực dụng

-dũng cảm

-thân thiện

-trọng đạo lý

-bè phái

 

 

-năng động

-trách nhiệm

-chí tiến thủ

-nhạy bén

-trọng đạo lý

Tuy nhiên, nhìn chung, chưa có một hệ thống cơ sở, tiền đề, nền móng phân tích chung nào được đưa ra bởi các tác giả nói trên khi liệt kê ra các giá trị văn hóa đặc trưng cho thanh niên Việt Nam. Vì vậy, để phản ánh tính liên kết, hệ thống giữa các giá trị văn hóa đặc trưng cho thanh niên Việt Nam trong thời kỳ toàn cầu hóa tác động sâu sắc hiện nay, bài viết này quyết định dựa vào lý thuyết loại hình khu vực lịch sử – văn hóa của tác giả [22], để cho thấy, xuất phát từ tính cộng đồng làng xã, bản sắc thanh niên do nam thanh niên ở khu vực nông thôn, đồng bằng là chủ thể chính kiến tạo nên bao gồm tinh thần trọng đạo lý, tinh thần trách nhiệm, tính trọng thể diện, và tính bè phái. Theo lý thuyết loại hình khu vực lịch sử – văn hóa của tác giả [22], mọi khác biệt văn hóa do khác biệt về điều kiện tự nhiên và xã hội quy định. Địa hình đồng bằng dẫn đến lối sống bằng trồng trọt buộc cư dân phải sống ổn định lâu dài, không ưa xáo trộn, đồng thời hình thành thái độ sống phụ thuộc vào thiên nhiên, không dám chinh phục thiên nhiên, chỉ dám sống hòa hợp với thiên nhiên. Vì phụ thuộc đồng thời nhiều hiện tượng tự nhiên khác nhau nên người Việt tư duy tổng hợp biện chứng, bao quát mọi yếu tố và chú trọng đến mối liên hệ giữa chúng. Sự chú ý bị phân tán nhưng hình thành lối diễn đạt súc tích, thâm thúy. Lối sống ổn định lâu dài hình thành nên cuộc sống lấy tình nghĩa làm cơ sở, từ đó dẫn đến thái độ trọng đức, trọng văn, trọng mẫu. Vì luôn phải trọng tình nên luôn phải cân nhắc, dẫn đến nhu cầu sống linh hoạt, biến báo để đảm bảo duy trì tình cảm trong quan hệ xã hội. Vì coi trọng tình cảm và biến báo, linh hoạt nên tính tổ chức, tính tôn ti, tính kỷ luật của người Việt không quá chặt chẽ hay nổi trội. Cuối cùng, vì luôn biến báo, linh hoạt và coi trọng tình cảm, coi trọng mối quan hệ tổng quát giữa các hiện tượng, nên sinh ra tính dung hợp, tính tổng hợp, tính kết hợp. Như vậy, do xuất phát từ chất thiên về âm tính, bản sắc thanh niên Việt Nam hiện nay hình thành tính thân thiện, tính bảo thủ, tính sùng ngoại, tính thực dụng. Ngoài ra, xuất phát từ cả tính cộng đồng làng xã và chất thiên về âm tính, nên bản sắc thanh niên Việt Nam do nam thanh niên khu vực nông thôn, đồng bằng là chủ thể chính kiến tạo mới mang cả lòng yêu nước và lòng nhân ái. Bên cạnh đó, xuất phát từ tính linh hoạt, bản sắc thanh niên Việt Nam mới có tính năng động. Vừa xuất phát từ tính tổng hợp (chủ toàn) vừa xuất phát từ tính linh hoạt, nên bản sắc thanh niên Việt Nam là nhạy bén trước thời cuộc. Mối quan hệ giữa hoàn cảnh môi trường và hệ giá trị văn hóa đặc trưng bản sắc thanh niên Việt Nam hiện nay có thể biểu hiện như sau:

Hình 1. Mối quan hệ giữa các cơ sở hình thành & hệ giá trị đại diện bản sắc thanh niên Việt Nam

Nguồn: tác giả tự tổng hợp

Thanh niên là nhóm xã hội đang nằm trong độ tuổi chuyển tiếp về mặt nhận thức lẫn tâm sinh lý, tiến đến dần hoàn thiện, ổn định về nhân cách, mà chưa hoàn toàn định hình nhân cách ổn định, vì vậy, với bản tính năng động, nhạy bén, mà lại chưa đầy đủ khả năng nhận thức âm mưu đồng hóa văn hóa thâm độc của các quốc gia phát triển công nghiệp văn hóa và mang chiến lược “diễn biến hòa bình”, nên thanh niên cũng là đối tượng dễ bị kích động bạo lực, xung đột từ bên trong so với các bộ phận nhóm xã hội khác.

Biểu hiện của sự áp đảo, chiếm ưu thế của nhận thức nhạy bén và lý tưởng đúng đắn ở thanh niên Việt Nam trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay chính là việc trên 80% thanh niên Việt Nam vẫn mong muốn cống hiến cho đất nước và đồng ý phấn đấu theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng – dân chủ – văn minh, trên 50% thanh niên Việt Nam có nguyện vọng vào Đảng và đã được kết nạp Đảng trong năm 2017 [23, tr.18-19]. Về tính năng động, hăng say, nhiệt huyết của thanh niên Việt Nam có thể thấy số lượng công trình nghiên cứu khoa học của thanh niên các trường học đăng ký đã tăng gấp 10 lần chỉ sau 11 năm (62 đề tài vào năm 1990 lên đến con số 585 đề tài vào năm 2011) [24, tr.299-300). Tính trách nhiệm cao cũng đã được thể hiện qua con số hơn 73% thanh niên trí thức trẻ Việt Nam hiểu trách nhiệm của thanh niên trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa, biết đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên lợi ích cá nhân và muốn đóng góp tham gia hăng hái vào xây dựng đất nước [11, tr.90]. Tính năng động, nhạy bén với thời cuộc và trách nhiệm cao của thanh niên Việt Nam cũng đã được biểu hiện qua thời kỳ Văn Lang – Âu Lạc, thời kỳ chống Bắc thuộc, thời đại Lý-Trần, thời kỳ kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh với những anh hùng tràn trề sức trẻ như Thánh Gióng, Mai An Tiêm, Lang Liêu, Trần Quốc Toản, Nguyễn Hiền, Hồ Nguyên Trừng, Nguyễn Trãi, Lương Thế Vinh, Lê Quý Đôn cùng hơn 100 tiến sĩ trong độ tuổi dưới 30 tuổi từ đầu thế kỷ 15 đến đầu thế kỷ 20 [25, tr.14). Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, tính năng động, nhạy bén với thời cuộc và tính trách nhiệm của thanh niên Việt Nam tiếp tục được thể hiện qua những dự án phục dựng Hoàng thành Thăng Long, các bộ phim lịch sử – dã sử – cổ trang, những bài hát mang âm hưởng truyền thống phối khí hiện đại, những dự án tái hiện tác phẩm văn học và dòng phim truyện nhựa đầy phá cách. Đây chính là những phương thức, quan điểm tích cực, sáng tạo, đầy nhiệt huyết của thanh niên Việt Nam có thể khai thác được và thúc đẩy để khơi gợi, phát huy vai trò quảng bá văn hóa, trách nhiệm phát huy sức mạnh chủ động chung tay đóng góp cho phát triển bền vững xã hội.

Tuy nhiên, tính thực dụng, lối sống thực dụng, chủ nghĩa hưởng thụ, chủ nghĩa vật chất cũng đang ngày càng phổ biến trong thanh niên Việt Nam là một sự thật không thể chối cãi khi tuyệt đại đa số thanh niên Việt Nam đều chọn lựa ngành nghề việc làm có thu nhập cao, dễ dàng có quyền lực, và chỉ vào Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh như một phong trào trên danh nghĩa [26, tr.279], 1/3 sinh viên Việt Nam từng xin/mua điểm, 1/2 sinh viên Việt Nam từng sao chép, đạo văn luận án, và 4/5 sinh viên Việt Nam từng sử dụng tài liệu trong thi cử [11, tr.104]. Chính vì hệ quả của lối sống thực dụng, hưởng thụ, sùng bái vật chất, tình trạng nạo phá thai ở Việt Nam trong độ tuổi vị thành niên từ 14 đến 18 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất Đông Nam Á, cao thứ 5 thế giới [27]. Vì sùng bái vật chất, ham muốn thực dụng, lối sống hưởng thụ, vị thành niên từ 14 đến 18 tuổi đã trở thành chủ nhân gây ra 1/5 tổng số vụ án vi phạm hình sự bao gồm trộm cắp tài sản, cố ý gây thương tích, hành hung, thậm chí là truy sát, giết người [28]. Hệ lụy của lối sống thực dụng, sùng bái vật chất bất chấp đạo đức còn là con số 91% đối tượng gái bán dâm đang ở độ tuổi thanh niên từ 18 đến 35 tuổi [29], và con số đối tượng nghiện ma túy được quản lý theo hồ sơ đã tăng gấp đôi chỉ sau 5 năm (từ 37,9% vào năm 2004 lên 73% vào năm 2009) [24].

Vì vậy, kiến tạo bản sắc thanh niên Việt Nam cũng là kiến tạo bản sắc nhóm thống lĩnh trong tương lai, kiến tạo bản sắc văn hóa chủ lưu trong xã hội Việt Nam sau này, do đó, không thể không đẩy mạnh các biện pháp khai thác tính năng động, lĩnh hội nhạy bén và sáng tạo của thanh niên trong việc kiến tạo bản sắc dân tộc nhằm phục vụ nhu cầu phát triển bền vững xã hội, củng cố sức mạnh tổng hợp quốc gia, từ đó đủ sức đề kháng văn hóa trước mọi âm mưu đồng hóa văn hóa và chiến lược “diễn biến hòa bình” thâm độc của các thế lực thù địch.

Một số giải pháp phát huy bản sắc văn hóa thanh niên Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số

Việt Nam là một nền kinh tế “đi sau” tuy chưa hoàn toàn vượt qua khỏi tình trạng trình độ công nghiệp cơ khí” nhưng đã chuyển hướng mạnh mẽ, phát hiện và nhấn mạnh động lực phát triển của nguồn lực văn hóa với tư cách một sức mạnh đặc thù. Dù chưa định hình giải pháp thực thi tầm chiến lược nhưng cách tiếp cận “đi tắt đón đầu” đuợc Việt Nam tích cực triển khai đã tiệm cận quỹ đạo phát triển tầm cao của thế giới hiện đại. Văn hóa truyền thống, khối tài nguyên chiến lược to lớn, động lực phát triển hiện thực đang được lấy làm trục dẫn dắt chiến lược hành động tích hợp “hội nhập truyền thống – hiện đại”, trong đó lấy con người làm cơ sở vững chắc phát triển văn hóa. Song việc vượt rào cản tâm lý, thói quen, những thiên kiến tư tưởng và hủ tục phức tạp vẫn không dễ thực hiện trong đời sống xã hội hiện đại do các luật lệ, thể chế và cả văn hóa dân chủ – tự trọng vẫn chưa đạt đến tầm vóc tương xứng với những rủi ro do quá trình hình thành và phát triển của mạng xã hội gây ra. Tính thân thiện, tính năng động, tính trọng thể diện và tính nhạy bén với thời cuộc là những đặc trưng giúp thanh niên Việt Nam dễ dàng tiếp thu tinh hoa văn hóa – văn minh nhân loại, đưa cả nền kinh tế – văn hóa – xã hội của Việt Nam đến mức độ hội nhập hoàn hảo nhất vào trường quốc tế. Từ đó trở thành tiền đề quan trọng cho việc chuyển đổi số lần lượt các thành tố quan trọng của nền kinh tế – văn hóa – xã hội Việt Nam.

Ở chiều ngược lại, chuyển đổi số cũng tạo ra điều kiện thúc đẩy kết nối thông tin giữa thanh niên các vùng, miền, quốc gia – dân tộc với nhau ngày càng nhanh chóng, thuận lợi. Sự thuận lợi trong kết nối thông tin xuyên văn hóa nhờ chuyển đổi số cũng sẽ tiếp tục trở thành tiền đề để nảy sinh thêm những phát hiện, phát minh có thể ứng dụng tùy thuộc điều kiện hoàn cảnh xã hội của từng quốc gia – dân tộc, với hoàn cảnh xã hội Việt Nam là một quốc gia đa dạng văn hóa, đa tộc người, gốc nông nghiệp, đang trong thời kỳ chuyển đổi quá độ lên xã hội hậu công nghiệp.

Chuyển đổi số giúp làm đa dạng hóa phương tiện thông tin – truyền thông đại chúng từ đó nâng cao nhu cầu nhận thức, đáp ứng nhu cầu giải trí và đòi hỏi vấn đề gạn đục khơi trong, chắt lọc thông tin có lựa chọn để tiếp nhận và tin tưởng, hành động đúng đắn, không lệch lạc trong cuộc sống.

Đồng thời, chuyển đổi số cũng góp phần làm thúc đẩy mạnh mẽ kết nối văn hóa giữa các loại hình văn hóa đại chúng – văn hóa tinh hoa – văn hóa bác học (hàn lâm) – văn hóa dân gian. Các ranh giới giữa các loại hình văn hóa dần xóa nhòa, và vì vậy số lượng nhân vật, người nổi tiếng được gắn nhãn đại diện cho các giá trị văn hóa đặc trưng theo khuôn mẫu thiên kiến mới của xã hội cũng sẽ ngày càng gia tăng, và có xu hướng là người nổi tiếng của văn hóa đại chúng, cầu nối giao thoa  giữa văn hóa dân gian, văn hóa bác học và văn hóa tinh hoa, mà không còn là người nổi tiếng đại diện đặc trưng một loại hình văn hóa cụ thể nhất định. Điều đó làm cho quá trình loại bỏ, triệt tiêu các giá trị văn hóa truyền thống không còn đủ khả năng thích ứng với các kênh phương tiện, nền tảng truyền thông – đại chúng diễn ra nhanh hơn bao giờ hết. Quá trình tiếp nhận các giá trị văn hóa ngoại sinh không còn đủ thời gian để kiểm nghiệm, chắt lọc, gạn đục khơi trong như trước đây. Vì vậy, hệ giá trị văn hóa mang tính đặc trưng bản sắc thanh niên Việt Nam cũng sẽ gặp nhiều biến động, tác động hơn bao giờ hết. Nhìn chung, chuyển đổi số sẽ làm lu mờ ranh giới giữa các loại hình văn hóa, cộng đồng văn hóa, vùng văn hóa và chuyển đổi số sẽ thúc đẩy nhu cầu khẳng định bản sắc của các nhóm xã hội, trong đó có thanh niên, lên cao hơn bao giờ hết, chuyển đổi số với tốc độ và xu hướng phát triển nhanh chóng, phức tạp sẽ làm cho tiến trình khẳng định bản sắc văn hóa của thanh niên Việt Nam trong thời kỳ chuyển đổi xã hội diễn ra phức tạp, khó lường hơn bao giờ hết.

Bản tính thanh niên mang tính năng động, nhạy bén và sáng tạo mà văn hóa Việt Nam vốn cũng đã mang tính linh hoạt, dân chủ, cộng đồng làng xã, nên trong việc xây dựng khuôn khổ nhằm nâng cao nhận thức, hoàn thiện nhân cách, tính cách văn hóa của thanh niên Việt Nam cần vận dụng cả tính linh hoạt, tính dân chủ, tính cộng đồng trong bản sắc văn hóa Việt Nam cũng như tính năng động, nhạy bén, sáng tạo trong bản sắc thanh niên Việt Nam. Cụ thể, các thiết chế xã hội như gia đình, nhà trường, ký túc xá, Đoàn-Hội, có thể tổ chức tận dụng tính năng động, nhạy bén, sáng tạo của thanh niên để tạo ra những sản phẩm truyền thông kĩ thuật số góp phần tăng sức hút hơn nữa cho các giá trị, sản phẩm văn hóa đặc sắc, đặc trưng căn tính, hồn cốt của dân tộc, từ đó củng cố sức đề kháng của lớp văn hóa bản địa trước quá trình tiếp xúc, giao lưu – tiếp biến văn hóa đang diễn ra với cường độ và nhịp độ gia tăng mạnh mẽ. Bất kỳ sản phẩm văn hóa đại chúng nào cũng đều dựa trên bốn nguyên tắc cơ bản để thành công là tính phổ quát, tính hội tụ, tính cấp thời, tính giải trí. Vì vậy, các thiết chế, khuôn khổ, sản phẩm khuyến khích thanh niên vững vàng về mặt tư duy, nhận thức, lý tưởng trước các bẫy văn hóa của chiến lược “diễn biến hòa bình”  cũng cần phải đảm bảo tính phổ quát, tính hội tụ, tính cấp thời và tính giải trí. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa các thiết chế sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ra đời các sản phẩm sáng tạo, nhạy bén với kĩ thuật số, với thời đại, và các nhu cầu của thanh niên, vừa củng cố nhận thức và các điều lệ, quy định trong khuôn khổ pháp luật nhằm phát triển bền vững xã hội vừa nâng cao năng lực cảnh giác, đề kháng của thanh niên Việt Nam trước những sản phẩm văn hóa đồi trụy, phản động, bạo lực, kích động, phi văn hóa, phản văn hóa có khả năng ồ ạt du nhập Việt Nam, thâm nhập, phá hoại hệ tư tưởng, ý thức hệ của thanh niên Việt Nam, từ đó làm xói mòn dần cơ sở tư tưởng – xã hội của chế độ, của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Sau thành công của MV ca nhạc Để Mỵ nói cho mà nghe, điệu nhảy Ghen Cô Vy, vũ điệu rửa tay, hàng loạt các hình thức thơ lục bát, hò, vè, làn điệu ca trù, tranh cổ động liên quan đến phòng chống COVID 19, phòng chống tin tức xuyên tạc về dịch bệnh ở Việt Nam, khối các trường học, câu lạc bộ Đoàn – Hội có thể tổ chức các cuộc thi cho chính thanh niên, học sinh, sinh viên tham gia biến tấu, sáng tác biến các điều lệ, luật, quy định văn hóa ứng xử, văn hóa học đường khô khan trở nên sinh động, giản dị, hấp dẫn, dễ đi vào lòng người.

Kết luận

Toàn cầu hóa là quá trình gia tăng các mối liên hệ qua lại lẫn nhau trên tất cả các lĩnh vực, hoạt động, giữa các quốc gia-dân tộc do nhu cầu phát triển tất yếu của các nền văn hóa Đông-Tây trong tiến trình vận động và phát triển. Dưới tác động của toàn cầu hóa, văn hóa đại chúng của các nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội ngày càng đa dạng, phức tạp, nguy cơ đánh mất bản sắc dân tộc của các quốc gia đang phát triển và các cộng đồng tộc người bên lề (marginal ethnics) cũng ngày càng rõ rệt, vì vậy, vai trò của thanh niên (nhóm xã hội đặc biệt đang trong độ tuổi chuyển tiếp về mặt nhận thức, nhân cách và tâm sinh lý nhưng lại  giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển bền vững của xã hội) ngày càng quan trọng hơn bao giờ hết. Do chủ thể chính kiến tạo bản sắc thanh niên Việt Nam là nam thanh niên trong độ tuổi từ 14 đến 35 gắn với môi trường nông thôn khu vực đồng bằng nên hệ giá trị văn hóa được kiến tạo gắn liền với thanh niên Việt Nam bao gồm tính thân thiện, tính bảo thủ, tính sùng ngoại, tính thực dụng, tinh thần trọng đạo lý, tinh thần trách nhiệm, tính trọng thể diện, tính bè phái, tính năng động và tính nhạy bén với thời cuộc.

 

Tài liệu tham khảo

[1] Lê Hữu Nghĩa, Toàn cầu hóa – những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị Quốc gia, 2004.
[2] Tôn Ngũ Viên, Toàn cầu hóa: nghịch lý của thế giới tư bản chủ nghĩa, NXB Thống kê, 2002
[3] Karl Marx & Engels, Toàn tập (tập 4), Chính trị Quốc gia, 1995.
[4] Lê Hữu Nghĩa & Trần Khắc Việt & Lê Ngọc Tòng, Xu thế toàn cầu hóa trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, Chính trị Quốc gia, 2007.
[5] Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Toàn cầu hóa – phương pháp luận và phương pháp tiếp cận nghiên cứu, NXB Chính trị Quốc gia, 2001.
[6] Dương Phú Hiệp, Tác động của toàn cầu hóa đối với sự phát triển văn hóa và con người Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, 2010.
[7] Trần Thị Thái Hà & Vũ Quốc Huy & Nguyễn Mạnh Hùng, Báo cáo phát triển con người 1999 – chương trình phát triển Liên Hợp Quốc, NXB Chính trị Quốc gia, 2000.
[8] Bjaznova, “Toàn cầu hóa và các giá trị dân tộc”, Viện Thông tin Khoa học xã hội, 37 (07), 2005.
Uỷ ban thế giới về mức xã hội của toàn cầu hóa, Toàn cầu hóa bình đẳng: cơ hội cho mọi người, Tổ chức Lao động Quốc tế, 2004.
[9] Vũ Trọng Kim, Quản lý nhà nước về công tác thanh niên trong thời kỳ mới, NXB Chính trị Quốc gia, 1999.
[10] Diệp Minh Giang, Xây dựng đạo đức của thanh niên Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh, 2011.
[11] Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp, “Báo cáo tổng hợp thống kê số liệu về dạy nghề năm 2015”, Tổng cục giáo dục nghề nghiệp, 2015, [Online] Available: gdnn.gov.vn/AIAdmin/AIDocs/View/tabid/90/DocID/466/Default.aspx, ngày truy cập 21/03/2023.
[12] Vương Liêm, Trí thức với công cuộc phát triển ở Việt Nam, NXB Thanh niên, 2004.
Phạm Đình Nghiệm, Nguồn nhân lực thanh niên cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, NXB Thanh niên, 1996.
[13] Đặng Vũ Cảnh Linh (2022). Một số biểu hiện về văn hóa và định hướng giá trị của thanh niên hiện nay. Hội đồng Lý luận Trung ương, Hệ giá trị quốc gia – hệ giá trị văn hóa – hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới, NXB Chính trị Quốc gia, 2022, 187-199.
[14] Nguyễn Tuấn Anh, “Hệ giá trị của thanh niên theo lý thuyết của Schwartz”, Tạp chí Tâm lý học, (229), 2018, 73-84.
[15] Trương Thị Khánh Hà, “Hệ giá trị của người trưởng thành Việt Nam theo lý thuyết của Schwartz”, Khoa học xã hội và nhân văn, 01 (02), 2015, 114-126
[16] Nguyễn Ngọc Thiện & Từ Thị Loan, Hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, NXB Chính trị Quốc gia, 2021.
[17] Phạm Minh Hạc, Giá trị học, hệ giá trị dân tộc Việt Nam, giá trị bản thân, NXB Chính trị Quốc gia, 2015.
[18] Viện Nghiên cứu Thanh niên, Kết quả điều tra tình hình thanh niên năm 2008, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, 2009.
[19] Nguyễn Phước Lộc, Tổng quan tình hình thanh niên – công tác Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam và phong trào thanh niên nhiệm kỳ 2005-2010, Khoa học và Công nghệ, 2010.
[20] Trần Ngọc Thêm, Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại, Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2021.
[21] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị 7 Ban chấp hành Trung ương khóa 8, NXB Chính trị Quốc gia, 2008.
[22] Phạm Hồng Tung, Thanh niên và lối sống của thanh niên Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, NXB Chính trị Quốc gia, 2011.
[23] Đặng Quỳnh Mai, “Nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục”, Tạp chí Cộng sản, (32), 2003, 11.
[24] Phạm Minh Hạc, Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa, Chính trị Quốc gia, 1996.
[25] Đ.H., “Việt Nam đứng đầu khu vực về tỷ lệ nạo phá thai ở vị thành niên“, Báo Sức khỏe đời sống, 23/04/2013, [Online] Available: vn/viet-nam-dung-dau-khu-vuc-ve-ty-le-nao-pha-thai-o-vi-thanh-nien-16961594.htm, ngày truy cập 21/03/2023.
[26] Tuệ Nguyễn, “Nỗi lo tội phạm vị thành niên”, Thanh niên, 28/10/2008, [Online] Available: https://thanhnien.vn/noi-lo-toi-pham-vi-thanh-nien-185128230.htm, ngày truy cập 21/03/2023
[27] P.T., “Hoạt động mại dâm ngày càng trẻ hóa và tinh vi”, Báo Dân trí, 16/01/2009, [Online] Available: dantri.com.vn/xa-hoi/hoat-dong-mai-dam-ngay-cang-tre-hoa-va-tinh-vi-1232275836.htm, ngày truy cập 21/03/2023.

 

[Lời Ban Biên tập Website]:

Bài viết là toàn văn tham luận của tác giả NGUYỄN MINH GIANG thuộc đơn vị Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh trong khuôn khổ Hội thảo Khoa học trẻ Việt Nam toàn cầu lần thứ II “Thanh niên trong bối cảnh chuyển đổi số” do Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam tổ chức vào ngày 20/9/2023 tại Thủ đô Hà Nội.

Có thể tham khảo tại: Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam. (2024). Kỷ yếu Hội thảo Khoa học trẻ Việt Nam toàn cầu lần thứ II “Thanh niên trong bối cảnh chuyển đổi số”. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.117-118.

SỬ DỤNG VĂN BẢN ĐIỆN TỬ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ HỘI VỤ CỦA CÔNG TÁC HỘI VÀ PHONG TRÀO SINH VIÊN

Tóm tắt: Chuyển đổi số là xu hướng khách quan trong tiến trình vận động và phát triển của xã hội dưới sự chi phối của các thành tựu khoa học – công nghệ. Trong xu hướng đó, công tác Hội và phong trào sinh viên đã từng bước nghiên cứu, đưa vào các giải pháp công nghệ nhằm cụ thể hóa phong trào. Trên cơ sở nhận thức thấu đáo vai trò của chuyển đổi số đối với sự phát triển của công tác Đoàn – Hội và phong trào thanh niên, sinh viên, bài viết tiếp cận đối tượng “văn bản điện tử” và vai trò của loại hình văn bản này trong việc góp phần giải quyết hiệu quả công tác Hội vụ. Bằng việc sử dụng phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp phân tích chính sách, bài viết cung cấp cơ sở lý luận về khái niệm “văn bản điện tử” và hệ thống hóa một số đặc điểm quan trọng của khái niệm “Hội vụ” để qua đó khái quát hóa được nội hàm của khái niệm này. Từ đó, bài viết nghiên cứu phân tích thực tiễn việc sử dụng văn bản điện tử trong công tác Hội và phong trào sinh viên ở các cấp tính từ năm học 2014 – 2015, làm rõ kết quả và hạn chế trong quá trình ứng dụng loại hình văn bản này. Bằng việc lý luận và phân tích bức tranh thực tiễn, bài viết đề xuất những kiến nghị nhằm tăng cường tính hiệu quả, hệ thống và đồng bộ đối với việc sử dụng văn bản điện tử trong giải quyết công tác Hội vụ.

Từ khóa: Chuyển đổi số, văn bản điện tử, Hội vụ, Hội Sinh viên Việt Nam, công tác Hội, phong trào sinh viên

  1. Đặt vấn đề và tổng quan tình hình nghiên cứu

1.1. Đặt vấn đề

Thực hiện chuyển đổi số là xu hướng khách quan không thể đảo ngược của đời sống dưới sự tác động đáng kể của thành tựu khoa học – công nghệ. Trong xu hướng này, thanh niên nói chung, sinh viên nói riêng, có vai trò quan trọng, là lực lượng lao động tiên phong trong thực hiện công tác chuyển đổi số. Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ XII xác lập 01 trong 03 nhiệm vụ đột phá của nhiệm kỳ 2023 – 2028 là “nâng cao năng lực số và phát huy vai trò của thanh niên trong chuyển đổi số”. Điều này cho thấy mối quan tâm đặc biệt và sự cần thiết để giáo dục về năng lực chuyển đổi số dành cho giới trẻ.

Đứng trước bối cảnh như vậy, hiện nay, công tác Hội và phong trào sinh viên đã từng bước đẩy mạnh đưa vào các giải pháp công nghệ trong việc cụ thể hóa phong trào. Trong đó, việc sử dụng văn bản điện tử trong các vấn đề Hội vụ là nội dung có ý nghĩa thiết thực và đặc biệt cần thiết đối với việc triển khai thực hành hiệu quả các vấn đề Hội vụ trong công tác Hội và phong trào sinh viên, nâng cao chất lượng vận hành của tổ chức, và tạo động lực để theo kịp sự phát triển và thay đổi không ngừng của thực tiễn khách quan. Tuy nhiên, xuất phát từ tính chất của công tác, việc sử dụng văn bản điện tử trong Hội vụ vướng phải những khó khăn do trình độ nghiên cứu và ứng dụng của đối tượng sinh viên còn hạn chế, phương hướng triển khai chưa được tối ưu và thống nhất do cơ chế chính sách và văn bản định hướng chưa đảm bảo, nguồn đầu tư cơ sở hạ tầng và công nghệ cần thiết còn tồn đọng khoảng cách giữa các cấp Hội.

Trên cơ sở thực tiễn và lý luận nêu trên, nhóm tác giả tiến đến lựa chọn đề tài “Sử dụng văn bản điện tử trong việc giải quyết các vấn đề Hội vụ của công tác Hội và phong trào sinh viên”.

1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Đối với các công trình nghiên cứu ngoài nước, nhiều tác giả đã khai thác về thuật toán, cấu trúc dữ liệu và phân tích về sức ảnh hưởng của văn bản điện tử trong các hoạt động diễn ra trong xã hội hiện đại. Như nhóm tác giả C. Liew và S. Foo với bài báo “Văn bản điện tử: Vai trò và Giá trị” phân tích về vai trò của văn bản điện tử trong hoạt động giao tiếp khoa học và thảo luận về một số lợi ích tiềm năng mà văn bản điện tử mang lại đối với các yếu tố tương tác giữa người đối với cá thể, sự việc và khám phá khoa học. Tác giả R. Pandita đã phân tích vai trò của văn bản điện tử trong quá trình dạy học cùng với hỗ trợ đánh giá học sinh đã cho thấy mối quan hệ tương trợ giữa văn bản truyền thống và văn bản điện tử trong hoạt động giáo dục, đưa ra những phân tích về nhu cầu bảo vệ bản quyền khi dùng đến văn bản điện tử để dạy và học. Đối với nghiên cứu của Ahmet Ayaz và Mustafa Yanartas đã khẳng định các tổ chức công cần xây dựng các hệ thống tiếp nhận điện tử tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý các tài liệu trên nền tảng kỹ thuật số mang tên Hệ thống quản lý tài liệu điện tử (Electronic Document Management System – EDMS). Hay một nghiên cứu khác tại Đài Loan được thực hiện bởi nhóm nghiên cứu của tác giả Shin – Yuan Hung về việc ứng dụng hệ thống EDMS trong các dịch vụ điện tử của Chính phủ tại Đài Loan phục vụ trong đề án chuyển đổi số của Chính phủ kết hợp với việc sử dụng lý thuyết về hành vi có kế hoạch (Theory of planned behavior) làm khung lý thuyết để tác động lên người dùng hệ thống. Hệ thống quản lý tài liệu điện tử này giúp lưu giữ hồ sơ an toàn, hiệu quả và tăng năng suất công việc trong các tổ chức công cộng thông qua việc hỗ trợ từ ban lãnh đạo và đào tạo nhân viên dịch vụ công.

Đối với các công trình nghiên cứu trong nước, khái niệm “văn bản điện tử” từng bước được sử dụng phổ biến trong bối cảnh đẩy mạnh công cuộc chuyển đổi số quốc gia. Bài viết của tác giả Vũ Đăng Minh – “Một số vấn đề lý luận về quản lý tài liệu điện tử trong cơ quan hành chính nhà nước” – đã cung cấp những nội dung lý luận tổng quan về khái niệm và đặc điểm quan trọng của tài liệu điện tử, đưa ra một số lưu ý đối với việc quản lý tài liệu điện tử trong công tác quản lý văn thư và lưu trữ của các cơ quan nhà nước. Bài viết “Hệ thống lưu trữ tài liệu điện tử: hình thức, xây dựng, cách tổ chức” do nhóm tác giả Trần Thắng, Đinh Nam Vinh và Trần Quang Huy thực hiện đã nỗ lực mô tả một cách sơ lược về khái niệm của “văn bản điện tử” và “lưu trữ điện tử”, qua đó, giới thiệu và phân tích về phương thức lẫn quy trình thực hiện việc quản lý và lưu trữ tài liệu điện tử trong các cơ quan, tổ chức. Hay đối với nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Hà về “Xây dựng và quản lý văn bản điện tử trong bối cảnh chuyển đổi số” đã chỉ ra những lợi ích trong việc ứng dụng văn bản điện tử vào quản lý nhà nước. Đồng thời là những thách thức đối với xây dựng và quản lý văn bản điện tử: (1) hạ tầng kỹ thuật vẫn còn nhiều hạn chế và chưa đồng bộ ở các cấp sử dụng; (2) thay đổi cách thức vận hành, quản lý của các tổ chức; (3) năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên chưa đồng đều và khó thay đổi khi chuyển giao các ứng dụng; (4) chưa có quy định và chế tài bắt buộc các cơ quan, tổ chức thực hiện văn bản điện tử đồng loạt tại các đơn vị.

Trên thực tế đến nay, các nghiên cứu tiếp cận xây dựng và vận hành văn bản điện tử ở các đơn vị hành chính công nói chung, chưa có nỗ lực cụ thể nào nhằm phân tích thỏa đáng, khai thác tính lý luận và ứng dụng “văn bản điện tử” trong quá trình triển khai công tác Hội vụ của tổ chức Hội Sinh viên với những điểm đặc thù của tổ chức xã hội này trong thực tiễn đời sống xã hội. Việc tiếp cận và nghiên cứu về sử dụng văn bản điện tử trong công tác Hội vụ của tổ chức Hội Sinh viên, vì vậy, trở nên hết sức cần thiết.

  1. Giải quyết vấn đề

2.1. Cơ sở lý luận về việc sử dụng văn bản điện tử giải quyết các vấn đề Hội vụ

2.1.1. Khái niệm, đặc điểm và các thành phần của “văn bản điện tử”

(*) Khái niệm

Khái niệm “văn bản điện tử”, hay còn được biết đến là “tài liệu điện tử” (electronic document), có lịch sử phát triển từ thập niên 70, gắn liền với các thành tựu nổi bật của Cách mạng công nghiệp lần thứ III (điện tử, máy tính, Internet). Với sự ra đời của máy tính điện tử và môi trường Internet, xã hội chứng kiến sự chuyển hóa về hình thái tồn tại của dữ liệu, từ truyền thống trên các văn bản giấy, sang dữ liệu trực tuyến được tin học hóa, số hóa.

Trường Luật Đại học Cornell đưa ra định nghĩa cơ bản “electronic document” (tài liệu điện tử) là những dạng thức thông tin tồn tại ở dạng số hóa được truyền giao đến một đơn vị hoặc bên thứ ba, mà ở đó thông tin bao gồm dữ liệu, văn bản, âm thanh, mã số, chương trình máy tính, phần mềm, hoặc cơ sở dữ liệu, (Legal Information Institute – Cornell Law School).

Tập đoàn Adobe – đơn vị có sức ảnh hưởng trong lĩnh vực công nghệ thông tin và công nghệ phần mềm, cũng đã đưa ra định nghĩa về khái niệm này trên trang thông tin chính thức của mình. Theo đó, “electronic document” (hay Adobe gọi là “E-Doc”) là một tập tin kỹ thuật số thay thế các hình thức tồn tại của các bản in truyền thống, tạo ra sự thuận tiện để chia sẻ, tổ chức, và kết nối trong phạm vi văn phòng hoặc thậm chí với quy mô toàn cầu.

Tại Việt Nam, khái niệm “văn bản điện tử” và “tài liệu điện tử” được sử dụng nhằm định nghĩa hình thức tồn tại các loại văn bản phi truyền thống, được xây dựng và triển khai trên nền tảng trực tuyến. Trong một số tài liệu nghiên cứu và văn bản quy phạm pháp luật, khái niệm “văn bản điện tử” được sử dụng phổ biến hơn so với “tài liệu điện tử”. Dù vậy, chưa có một cơ sở pháp lý hay khoa học nào để thống nhất hoàn toàn nội hàm của các khái niệm này. Qua từng giai đoạn, định nghĩa về khái niệm “văn bản điện tử” không ngừng được bổ sung, điều chỉnh.

Năm 2007, trong Nghị định số 64/2007/NĐ-CP về việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, khái niệm văn bản điện tử được định nghĩa là “văn bản được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu”.

Đến năm 2018, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 28/2018/QĐ-TTg về việc gửi, nhận văn bản điện tử giữa các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước. Trong phạm vi của văn bản này, khái niệm “văn bản điện tử” lần đầu được khái quát hóa như một động thái thừa nhận sự tồn tại về mặt lý luận và thực tiễn của loại hình văn bản này. Khoản 01, điều 03, chương I diễn giải:

Văn bản điện tử là văn bản dưới dạng thông điệp dữ liệu, theo thể thức, định dạng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định, được tạo lập hoặc được số hóa từ văn bản giấy.

Điều này có nghĩa là, với cách tiếp cận này, văn bản điện tử được phân tích sâu sắc hơn, đó là một “dạng thông điệp dữ liệu”, do chủ thể là “cơ quan nhà nước có thẩm quyền” quy định về thể thức và định dạng, và dữ liệu của văn bản điện từ “được tạo lập hoặc được số hóa từ văn bản giấy”.

Bộ Nội vụ ban hành Thông tư số 01/2019/TT-BNV về việc quy định quy trình trao đổi, lưu trữ, xử lý tài liệu điện tử trong công tác văn thư, các chức năng cơ bản của Hệ thống quản lý tài liệu điện tử trong quá trình xử lý công việc của các cơ quan, tổ chức. Khoản 9, điều 03, chương I của thông tư này có giải thích rằng:

                      “Văn bản số hóa từ văn bản giấy là văn bản điện tử được tạo lập từ việc số hóa đầy đủ, chính xác nội dung, thể thực văn bản giấy và có chữ ký số của cơ quan, tổ chức thực hiện số hóa.”

Nội dung phân tích trong Thông tư Bộ Nội vụ nhất quán với Quyết định số 28/2018/QĐ-TTg về mặt lý luận và cách hiểu đối với khái niệm “văn bản điện tử”, ở chỗ cả 02 đều thừa nhận cơ sở nội dung của văn bản điện tử có được từ việc thực hiện số hóa nội dung của văn bản giấy.

Mới đây, vào năm 2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 30/2020/NĐ-CP về công tác văn thư. Khái niệm “văn bản điện tử” một lần nữa được sử dụng và có những chỉnh lý, bổ sung về mặt diễn giải so với Quyết định số 28/2018/QĐ-TTg trước đó. Cụ thể:

                      “Văn bản điện tử là văn bản dưới dạng thông điệp dữ liệu được tạo lập hoặc được số hóa từ văn bản giấy và trình bày đúng thể thức, kỹ thuật, định dạng theo quy định.”

Điểm khác biệt cơ bản của khái niệm “văn bản điện tử” được sử dụng trong Nghị định số 30 nằm ở chỗ khái niệm này giản lược đi chủ thể “cơ quan nhà nước”, trong tư cách là chủ thể có thẩm quyền quy định thể thức và định dạng của văn bản điện tử. Thay vào đó, khái niệm được sử dụng trong Nghị định số 30 phân tích thể thức, kỹ thuật và định dạng của văn bản điện tử phải tuân theo đúng “quy định”. Sự thay đổi này có thể xuất phát từ việc mong muốn tiếp cận tổng thể và toàn diện hơn quá trình tạo lập và quản lý văn bản điện tử trong thực tiễn. Tùy vào tính chất và đặc thù của các cơ quan, tổ chức mà quy định về thể thức và định dạng của văn bản điện tử có thể khác nhau, nhưng cần thiết phải tuân theo cơ chế pháp lý và đặt dưới những yêu cầu bắt buộc về mặt kỹ thuật để đảm bảo tính bảo mật và an ninh. Khái niệm này của Nghị định số 30 cũng chính là khái niệm được sử dụng phổ biến và thống nhất trong hệ thống cơ quan nhà nước và trong các “giáo trình, tập bài giảng tại các cơ sở đào tạo về văn thư, lưu trữ tại Việt Nam” (Vũ Đăng Minh, 2021).

(*) Đặc điểm của văn bản điện tử

Từ tổng hợp những khái niệm được đưa ra liên quan đến “văn bản điện tử”, có thể đúc kết được một số những đặc điểm cơ bản của văn bản điện tử như sau:

Thứ nhất, về hình thức tồn tại, văn bản điện tử tồn tại ở dạng “thông điệp dữ liệu”. Điều này có nghĩa là văn bản điện tử được tạo lập và sử dụng bằng các phương tiện điện tử, tồn tại trong môi trường số, nhưng có những giá trị pháp lý như văn bản thông thường. Như vậy, văn bản điện từ mang dạng thức của thông điệp dữ liệu, và sở hữu giá trị pháp lý của thông điệp điện tử (theo Luật Giao dịch điện tử năm 2005).

Thứ hai, bởi văn bản điện tử có giá trị pháp lý quan trọng, nên đòi hỏi loại hình văn bản này phải đảm bảo những đặc tính tiên quyết để bảo đảm giá trị pháp lý của nó. Theo đó, có 03 giá trị tiên quyết của văn bản điện tử, bao gồm:

Một là, tính xác thực (Authentication) là khả năng đảm bảo tính chính danh của văn bản điện tử, xác nhận nguồn gốc, bối cảnh hành chính, thời gian, địa điểm, nội dung, thông tin truyền đạt và mối quan hệ với các văn bản, tài liệu khác đính kèm. Điều này giúp văn bản điện tử có khả năng chứng minh thông tin và sự kiện diễn ra trong thực tế, đồng thời đảm bảo giá trị pháp lý theo quy định của pháp luật.

Hai là, tính toàn vẹn (Integrity) là khả năng đảm bảo văn bản điện tử tồn tại trong môi trường số và không bị thay đổi nội dung, tránh nguy cơ xâm nhập dữ liệu. Cơ chế bảo vệ tính toàn vẹn đảm bảo văn bản không mất giá trị pháp lý và cơ sở pháp lý, đồng thời giữ cách hiểu và nội dung không bị sai lệch. Tỉ lệ sai số có thể xảy ra nhưng cần được kiểm soát trong giới hạn cho phép, để thông tin và nội dung của văn bản không bị mất đi. Tính toàn vẹn đảm bảo văn bản điện tử duy trì thông tin và nội dung khi chia sẻ và truyền giao trong môi trường số, từ đó đảm bảo mức độ bảo mật và tin cậy.

Ba là, tính chống chối bỏ (Nonrepudiation) là khả năng đảm bảo văn bản điện tử không thể bị thay đổi nội dung một cách dễ dàng, tránh việc đối tượng sử dụng có thể phủ nhận trách nhiệm đối với nội dung đã được đề cập trong văn bản. Cơ chế chống chối bỏ trong văn bản điện tử giúp ràng buộc trách nhiệm đối với hành động của các chủ thể liên quan và đảm bảo tính toàn vẹn về giá trị pháp lý của văn bản điện tử.

Thứ ba, văn bản điện tử đòi hỏi trình độ nghiệp vụ và chuyên môn trong quá trình sử dụng, vận hành, quản lý. Trong khi văn bản truyền thống đặt nặng yêu cầu về khả năng quản trị văn phòng và khoa học lưu trữ, việc sử dụng, vận hành và quản lý văn bản điện tử còn đòi hỏi người dùng phải có kỹ năng công nghệ thông tin và những hiểu biết căn bản liên quan đến văn bản điện tử, an ninh mạng và kiến thức về chuyển đổi số. Người dùng văn bản điện tử cần hiểu được quy định về thể thức, nội dung, và kỹ thuật trình bày. Đồng thời, cần phải nắm được quy trình chuyển giao văn bản trong môi trường số, quy định về cách thức số hóa văn bản giấy thành văn bản điện tử, v.v. Như vậy, một đặc điểm nổi bật của văn bản điện tử là đòi hỏi người sử dụng và quản trị nó phải là có năng lực công nghệ thông tin và nghiệp vụ quản trị văn phòng ở mức độ cơ bản để có thể khai thác hiệu quả lợi ích mà văn bản điện tử mang lại.

(*) Các thành phần của văn bản điện tử:

Văn bản điện tử sở hữu những thành phần cơ bản tương tự như văn bản truyền thống thông thường. Mục đích cơ bản của việc soạn thảo văn bản là để ghi nhận và truyền tải thông tin. Vì vậy, nội dung của văn bản đóng vai trò hạt nhân. Đối với các văn bản truyền thông, thành phần cơ bản làm thành nội dung của văn bản bao gồm ký tự, từ ngữ, dòng, đoạn, trang. Trong một số văn bản, nhằm cụ thể hóa nội dung được biểu đạt, còn có các thành phần khác như hình ảnh, sơ đồ. Đối với các văn bản hành chính tại Việt Nam, để đảm bảo giá trị pháp lý của nội dung văn bản, thành phần văn bản còn yêu cầu phải có con dấu của cơ quan, tổ chức ban hành văn bản và chữ ký của pháp nhân đại diện.

Bên cạnh những thành phần cơ bản như văn bản truyền thống, văn bản điện tử, với tính chất đặc thù của nó, đòi hỏi phải có một thành phần quan trọng khác, đó là chữ ký số. Khoản 6, Điều 3, Nghị định 130/2018/NĐ-CP về việc quy định chi tiết thi hành Luật giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số đã định nghĩa “chữ ký số” như một dạng chữ ký điện tử. Nó được tạo lập nên bằng việc làm biển đổi thông điệp dữ liệu thông qua việc sử dụng hệ thống mật mã không đối xứng:

  1. a) Việc biến đổi nêu trên được tạo ra bằng đúng khóa bí mật tương ứng với khóa công khai trong cùng một cặp khóa;
  2. b) Sự toàn vẹn nội dung của thông điệp dữ liệu kể từ khi thực hiện việc biến đổi nêu trên.

Chữ ký số đóng vai trò thành phần cơ bản nhất của văn bản điện tử, làm nên cơ sở đảm bảo được 03 đặc tính tiên quyết của văn bản điện tử: tính xác thực, tính toàn vẹn, tính chống chối bỏ. Pháp luật thừa nhận giá trị pháp lý của chữ ký số như chữ ký truyền thống, và đặt ra các điều kiện về việc bảo đảm tính chính danh của chữ ký số. Chữ ký số vốn dĩ không mang một hình thái cố định, có thể tồn tại dưới dạng ký tự, hình ảnh, mã số, v.v và được mã hóa bởi khóa bảo mật của đơn vị quản lý.

Các thành phần của văn bản điện tử có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau, quyết định sự tồn tại và giá trị pháp lý của văn bản điện tử. Trong đó, chữ ký số là thành phần điển hình nhất phân biệt văn bản điện tử với văn bản truyền thống thông thường, và đóng vai trò như công cụ bảo đảm các điều kiện tiên quyết của văn bản điện tử.

2.1.2. Khái niệm và một số nội dung chủ yếu của “Hội vụ” trong công tác Hội và phong trào sinh viên

Khái niệm “Hội vụ” được sử dụng một cách phổ biến trong quá trình thực hiện công tác Hội và phong trào sinh viên từ cấp Trung ương đến cơ sở trực thuộc. Bối cảnh sử dụng khái niệm này thường diễn ra trong môi trường hành chính, thông qua văn bản, các công tác văn phòng nói chung, và quá trình họp, thảo luận, trao đổi về các vấn đề liên quan đến công tác Hội.

Tuy nhiên, đến nay, chưa có văn bản hay nghiên cứu nào chính thức hóa nội hàm của khái niệm “Hội vụ”. Việc sử dụng khái niệm này phần lớn phụ thuộc vào cách hiểu chủ quan trong nội bộ cán bộ Hội, thậm chí, bản thân khái niệm này không phổ biến trong đông đảo cộng đồng Hội viên, sinh viên. Nói như vậy để thấy rằng, cách hiểu và nội hàm của “Hội vụ” trong việc thực hành công tác Hội và phong trào sinh viên chưa có được cơ sở để nhất quán. Nhưng nhu cầu của thực tiễn đặt ra yêu cầu quan trọng để khái quát hóa nội hàm của khái niệm này, phục vụ cho nhu cầu giao tiếp trong môi trường công tác Hội, và đặc biệt là trong công tác nghiên cứu chuyên môn.

Xét ở góc độ ngôn ngữ học, khái niệm “Hội vụ” được kết hợp từ 02 chữ “Hội” và “vụ”. “Hội”, trong trường hợp này, được hiểu là “Hội Sinh viên Việt Nam” – tổ chức có vai trò tập hợp, huy động, và phát huy vai trò tiên phong hành động cách mạng của toàn thể sinh viên Việt Nam trong và ngoài nước. “Vụ” là từ Hán việt, có nghĩa là “việc”, tức là tổng hợp các nội dung cần thiết phải xử lý trong đời sống thực tiễn, phát sinh trong quan hệ giữa cá nhân, tổ chức, nhà nước. Như vậy, khi ghép lại với nhau, “Hội vụ” có thể được hiểu một cách cơ bản là tổng thể các công việc phát sinh và đòi hỏi cần được xử lý trong công tác Hội và phong trào sinh viên các cấp. Tiếp cận dưới góc độ ngôn ngữ học, việc phân tích khái niệm của “Hội vụ” tương đối dễ dàng và dễ tiếp cận, nhưng cũng nảy sinh bất cập ở một số điểm. Có thể đề cập như: (1) việc phân tích như vậy dễ phát sinh tính chủ quan, thiếu cơ sở xác nhận trong thực tiễn, và các dữ kiện, căn cứ pháp lý thuyết phục; (2) chưa hệ thống hóa và cụ thể hóa được “các việc cần xử lý của công tác Hội Sinh viên” là những công việc gì, đâu là những công việc trọng điểm, mang tính điển hình của công tác Hội.

Ở góc độ tiếp cận khác, thông qua việc sử dụng cách hiểu trung gian từ các khái niệm khác có liên quan và mang tính tương đồng vốn đã được thống nhất về cách hiểu, điều này có thể hỗ trợ tiếp cận khái niệm “Hội vụ” một cách tương đối toàn diện và tổng thể. Một khái niệm trung gian có thể được sử dụng để phân tích đó là “Nghiệp vụ công tác Đảng viên”- mảng công tác quan trọng trong hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tác giả Nguyễn Văn Chung đã định nghĩa rằng “Công tác nghiệp vụ Đảng viên” có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng Đảng về mặt tổ chức, gồm những công việc và như: Thẩm định tiêu chuẩn, điều kiện, thủ tục của người vào Đảng; xem xét chuyển sinh hoạt Đảng cho Đảng viên; thẩm định, thực hiện các thủ tục như cấp thẻ, cấp Huy hiệu Đảng cho Đảng viên; quản lý sử dụng phần mềm quản lý Đảng viên trên máy vi tính, thống kê định kỳ, đột xuất về tổ chức Đảng, Đảng viên (Nguyễn Văn Chung, 2019).

Từ việc định nghĩa như vậy, có thể hiểu một cách cơ bản, “Nghiệp vụ công tác Đảng viên” là một mảng công tác tương đối rộng lớn, gồm nhiều công việc liên quan đến Đảng viên và công tác Đảng, chủ yếu là các công tác thuộc lĩnh vực hành chính. Tại Hướng dẫn số 12-HD/BTCTW của Ban Tổ chức Trung ương Đảng về nghiệp vụ công tác Đảng viên, các mảng công tác trọng tâm đã được hệ thống hóa gồm:

– Kết nạp Đảng viên.

– Quản lý hồ sơ Đảng viên, phát thẻ Đảng viên, giới thiệu sinh hoạt Đảng.

– Khen thưởng tổ chức Đảng và Đảng viên.

– Một số vấn đề khác liên quan đến Đảng viên: Đảng viên xin miễn công tác và
sinh hoạt Đảng, phân công công tác cho Đảng viên.

– Tài liệu, phương tiện thực hiện nghiệp vụ công tác Đảng viên.

Với cách tiếp cận trung gian từ một khái niệm khác chia sẻ nhiều đặc điểm tương đồng, việc phân tích khái niệm “Hội vụ” có thể được thực hiện trên cơ sở nhìn nhận một số các điểm cần lưu ý như sau:

Một là, tương tự như “Nghiệp vụ công tác Đảng viên” trong công tác Đảng, “Hội vụ” là một mảng công tác khá rộng lớn trong công tác Hội và phong trào sinh viên, bao gồm đa dạng các công việc, chủ yếu là các công việc hành chính có liên quan trực tiếp đến đối tượng then chốt của tổ chức Hội là cán bộ Hội, Hội viên, sinh viên.

Hai là, dù mang đặc trưng là một mảng công tác rộng lớn, song, cũng như “Nghiệp vụ công tác Đảng viên”, từ việc phân tích lý luận đến thực tiễn triển khai, “Hội vụ” cần xác lập những công tác trọng tâm, hệ thống hóa một cách bài bản để tạo ra phương hướng thực hành công tác Hội và phong trào sinh viên một cách hiệu quả.

Ba là, công tác Hội vụ là việc làm đòi hỏi sự triển khai thường xuyên, lâu dài, bền bỉ, vận hành theo quỹ đạo ổn định để xử lý hiệu quả những công việc điển hình, cũng như chuẩn bị những điều kiện cần thiết để giải quyết phù hợp những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hành công tác Hội và phong trào sinh viên.

Bốn là, chủ thể thực hiện Hội vụ là các đồng chí cán bộ Hội Sinh viên, trong đó, đơn vị chuyên trách là Văn phòng Hội Sinh viên các cấp.

Trên cơ sở xác định những điểm nêu trên, khái niệm Hội vụ có thể được khái quát hóa như sau: Hội vụ là tập hợp tổng thể những mảng công việc liên quan đến công tác Hội và phong trào sinh viên, được triển khai một cách thường xuyên và lâu dài trong nội bộ tổ chức Hội do các cán bộ Hội chuyên trách và Văn phòng Hội Sinh viên các cấp làm đầu mối triển khai thực hiện, nhằm bảo đảm lợi ích của Hội viên, sinh viên và duy trì sự vận hành hệ thống, bài bản và hiệu quả của tổ chức Hội Sinh viên.

Những công tác trọng tâm của công tác Hội vụ có thể được kể đến như: kết nạp Hội viên; quản lý hồ sơ Hội viên; quản lý công tác tài chính của Hội; xử lý các văn bản hành chính liên quan đến tổ chức Hội và Hội viên, sinh viên; quản lý công tác khen thưởng và phê bình; quản lý và xử lý thông tin chính thức về phương hướng triển khai công tác Hội tại đơn vị trong từng giai đoạn cụ thể.

2.1.3. Vai trò của “văn bản điện tử” trong việc giải quyết các vấn đề “Hội vụ”

Nhu cầu đẩy mạnh thực hiện hiệu quả công tác chuyển đổi số trong công tác Hội và phong trào sinh viên đòi hỏi những giải pháp cụ thể và thiết thực. Trong đó, việc đưa vào sử dụng văn bản điện tử trong việc giải quyết các vấn đề Hội vụ có vai trò quan trọng và là hướng đi phù hợp với xu thế chung. Thực hiện nghiên cứu đưa vào sử dụng hệ thống và bài bản văn bản điện tử trong công tác Hội sẽ mang lại những bước tiến cần thiết để tăng cường chất lượng và hiệu quả của công tác Hội và phong trào sinh viên.

Một là, văn bản điện tử giúp tăng cường tốc độ, tiết kiệm thời gian trong quá trình chuyển giao thông tin và ban hành văn bản của các cấp. Nhờ việc chuyển giao trong môi trường mạng, tinh gọn quy trình tham mưu, rút ngắn được thời gian tham mưu ban hành nhờ việc sử dụng chữ ký số, văn bản điện tử có thể nhanh chóng được truyền tải đến các cấp cơ sở Hội. Hiện nay, với mạng lưới Hội Sinh viên trong toàn quốc lẫn ngoài nước, và hơn 2 triệu hội viên, việc xây dựng hệ thống văn bản điện tử giúp tăng cường cơ chế tiếp cận mà không cần và tạo ra tính nhất quán từ Trung ương đến cơ sở. Song song với đó, vai trò này của văn bản điện tử còn được thể hiện trong việc quản lý hoạt động, chương trình, chiến dịch tình nguyện như Mùa hè xanh, Xuân tình nguyện, v.v. Trong quá trình tổ chức các mặt trận tình nguyện, khoảng cách địa lý và đặc điểm xã hội tại một số địa phương có thể trở thành rào cản trong việc tiếp nhận văn bản theo hình thức thông thường. Do vậy, sử dụng văn bản điện tử có thể đảm bảo được tính kịp thời của thông tin, đảm bảo quản lý và nắm bắt tình hình của công tác tình nguyện từ sớm, từ xa.

Hai là, sử dụng văn bản điện tử giúp quản lý một cách hệ thống các nội dung liên quan đến công tác Hội vụ. Như đã phân tích ở mục 2.1.2, Hội vụ là những vấn đề cơ bản nhưng có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đối với việc quản lý, duy trì hiệu quả hoạt động của tổ chức Hội Sinh viên. Vì vậy, triển khai sử dụng văn bản điện tử sẽ hình thành một cơ chế hệ thống hóa các nội dung của công tác Hội vụ như: quản lý hồ sơ hội viên, cấp phát Giấy chứng nhận tham gia hoạt động dành cho hội viên, sinh viên; quản lý hồ sơ tài chính và công tác hội phí, v.v. Thay vì thực hiện quản lý văn bản như thông thường (vốn đòi hỏi không gian lưu trữ và dễ bị xáo trộn do môi trường lưu trữ), văn bản điện tử đòi hỏi phải được quản lý trong một hệ thống máy tính nội bộ và lưu trữ một cách có trình tự theo thời gian và thể loại văn bản trên không gian trực tuyến, do vậy, sử dụng văn bản điện tử giúp cho công tác Hội vụ được tổ chức thực hiện có hệ thống, có quy trình, thông tin được trao đổi một cách hệ thống và hạn chế được những phát sinh làm xáo trộn các văn bản.

Ba là, sử dụng văn bản điện tử thể hiện nỗ lực góp phần hiện thực hóa phương hướng và mục tiêu được đề ra trong Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ XII (nhiệm kỳ 2023 – 2028). Cụ thể, Nghị quyết Đại hội Đoàn xác lập những nội dung sau:

– 01 trong 12 chỉ tiêu trọng tâm là “60% thanh thiếu nhi được tiếp cận các hoạt động nâng cao năng lực số do tổ chức Đoàn, Hội các cấp triển khai thực hiện; 50% thanh niên sử dụng dịch vụ công trực tuyến; 70% thanh niên sử dụng tài khoản thanh toán điện tử”.

– 01 trong 03 mục tiêu công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi nhiệm kỳ 2022 – 2027 là “phát huy tinh thần xung kích, tình nguyện, sáng tạo, trách nhiệm của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là hội nhập quốc tế, chuyển đổi số quốc gia, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2023, tầm nhìn đến năm 2045”.

– 01 trong 10 chương trình, đề án trọng điểm giai đoạn 2022 – 2027 là đề án “Nâng cao năng lực số cho thanh thiếu niên Việt Nam giai đoạn 2022 – 2030”.

Việc xác lập những nội dung nêu trên cho thấy quyết tâm cao độ của toàn thể Đoàn viên, thanh niên trong việc thực hiện hiệu quả công tác chuyển đổi số của Đoàn, góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi số quốc gia, đưa công tác Đoàn phát triển vượt trội về năng lực tổ chức và hoạt động. Là tổ chức xã hội, bộ phận quan trọng của tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, tổ chức Hội Sinh viên Việt Nam cần nhận thức phù hợp vai trò của mình để góp phần tổ chức thực hiện hiệu quả Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn quốc, đưa nội dung Nghị quyết trở thành giá trị thiết thực trong quá trình học tập, lao động, trau dồi tri thức, và rèn luyện của Hội viên, sinh viên. Theo đó, việc nghiên cứu, tổ chức thực hiện và đưa vào sử dụng chính thức văn bản điện tử trong việc giải quyết các vấn đề Hội vụ của công tác Hội và phong trào sinh viên một cách bài bản sẽ là hướng đi quan trọng, cho thấy sự chuyển mình vượt trội trong cách thức và quy trình vận hành của tổ chức Hội, tăng cường hiệu quả trong tập hợp và quản lý thông tin, tạo ra được tính nhất quán về tư duy và nhận thức hành động giữa tổ chức Đoàn – Hội, phong trào thanh niên và sinh viên, qua đó, khẳng định trên thực tế tính hành động cao độ của đội ngũ cán bộ, Hội viên, sinh viên trong việc tham gia chuyển đổi số.

2.2. Thực tiễn việc sử dụng văn bản điện tử trong việc giải quyết các vấn đề Hội vụ của công tác Hội và phong trào sinh viên

Trên thực tế, nhận thức về việc thực hiện chuyển đổi số trong công tác thông tin của tổ chức Hội đã được chứng minh từ những năm về trước, ở cấp Trung ương đến cơ sở. Tuy khái niệm “văn bản điện tử” không được trực tiếp sử dụng trong nội dung nhiệm vụ các năm học, nhưng hướng tiếp cận có những điểm tương đồng và liên quan. Bức tranh thực tiễn của việc này có thể được phân tích ở hai phương diện: Mặt thành tựu và mặt hạn chế.

(*) Mặt thành tựu:

Chương trình công tác Hội và phong trào sinh viên năm học 2014 – 2015 của Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam đã vạch rõ nhiệm vụ trong năm học: “Xây dựng văn phòng điện tử của Hội Sinh viên Việt Nam nhằm tăng cường chất lượng công tác thông tin, báo cáo của Hội sinh viên các cấp”. Trong bản chương trình cũng đã đề cập đến nội dung về việc “Ứng dụng công nghệ thông tin, Internet trong xây dựng và sử dụng cơ sở dữ liệu quản lý về tổ chức, cán bộ, hội viên, sinh viên”, thể hiện cho thấy phương hướng chỉ đạo từ phía Trung ương dành cho Hội Sinh viên các tỉnh thành, các đại học, học viện, cũng như các trường đại học, cao đẳng, coi trọng công tác chuyển đổi số trong thực hiện công tác Hội nói chung, Hội vụ nói riêng.

Thực hiện kết luận của Ban Thư ký Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam khóa IX về “Nâng cao chất lượng công tác tổ chức và xây dựng Hội giai đoạn 2015 – 2018”, chương trình công tác Hội và phong trào sinh viên trong năm học 2015 – 2016 đã xác định 02 nhiệm vụ trọng tâm trong năm học bao gồm: (1) Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thống nhất trong các cấp Hội; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong điều hành tác nghiệp quản lý hội viên và sinh hoạt Hội; (2) Triển khai Đề án “Văn phòng điện tử” nhằm ứng dụng công nghệ thông tin trong điều hành, tác nghiệp, quản lý hội viên, sinh hoạt Hội. Trong đó, Đề án “Văn phòng điện tử” là nội dung có ý nghĩa quan trọng, tạo điều kiện để cụ thể hóa phương hướng và nhiệm vụ được xác định, tạo cơ sở cần thiết để hoạch định cách thức vận hành “Văn phòng điện tử”, trong đó, “văn bản điện tử” là một bộ phận quan trọng cấu thành vào đó. Tiếp nối định hướng trong năm 2014-2015, Trung ương Hội Sinh viên đã cụ thể hóa các giải pháp và nỗ lực tái định hình quỹ đạo chuyển đổi số theo hướng bài bản hơn, yêu cầu kỹ thuật cao hơn, đưa vào nghiên cứu và sử dụng các giải pháp công nghệ cần thiết trong quản lý công tác Hội vụ, đặc biệt là ở mảng công tác quản lý văn bản, hồ sơ.

Bước sang năm 2020, sự xuất hiện của đại dịch Covid-19 gây ra những gián đoạn mạnh mẽ trong việc triển khai công tác Hội, đòi hỏi sự thay đổi trong hình thức hoạt động từ trực tiếp sang trực tuyến. Trong bối cảnh đó, bên cạnh những khó khăn, thách thức đáng kể mà đại dịch gây ra, yêu cầu của thực tiễn khách quan cũng đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy giải quyết các công tác Hội vụ trên không gian số, thay thế quy trình làm việc tại văn phòng truyền thống sang văn phòng điện tử, từ chuyển giao văn bản thông thường sang văn bản điện tử, giao tiếp hành chính trên nền tảng số trở thành nhiệm vụ quan trọng mà các cấp Hội phải thực hiện đồng loạt. Do yêu cầu giao tiếp trực tuyến, các công tác liên quan đến Hội vụ cũng nhất loạt được thực hiện qua không gian mạng. Trong tuyến giao tiếp của Trung ương đến các cơ sở Hội và tuyến giao tiếp trong nội bộ các cơ sở Hội, văn bản điện tử được sử dụng thường xuyên như một giải pháp tối ưu ở thời điểm dịch bệnh. Như một công cụ giao tiếp hành chính, văn bản điện tử được sử dụng thường xuyên và phổ biến hơn, giúp hạn chế các tác động của sự gián đoạn, đảm bảo cơ chế thông tin được thực hiện xuyên suốt, giúp tối giản quy trình giao – nhận thông tin, góp phần quan trọng trong việc tạo ra tiền đề để chính thức hóa việc sử dụng văn bản điện tử ở giai đoạn hậu đại dịch.

Không chỉ riêng ở cấp Trung ương, công tác chuyển đổi số nói chung và việc triển khai sử dụng văn phòng điện tử nói riêng cũng được các cơ sở Hội quan tâm thực hiện. Cụ thể, nhiều đơn vị Hội Sinh viên đã chủ trương xây dựng website chính thức của đơn vị, qua đó, xây dựng hệ thống dữ liệu trực tuyến để quản lý các văn bản hành chính cũng như cung cấp những thông tin cần thiết nhằm phổ cập những thông tin cần thiết đến Hội viên, sinh viên, đảm bảo thực hiện công tác Hội vụ một cách mới mẻ, ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin: website của Hội Sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh (https://hoisinhvientphcm.com/); website liên kết tổ chức Đoàn – Hội của Học viện Ngân hàng (https://hvnh.edu.vn/); website Hội Sinh viên Trường Đại học Mở Hà Nội (http://hoisinhvien.hou.edu.vn/); website Trường Đại học Công nghệ Miền Đông (https://mit.vn/Hoi-sinh-vien/); v.v. Ở một số trường có kinh nghiệm và nguồn lực tiên phong, văn phòng điện tử dành cho công tác Đoàn-Hội được xây dựng trên cổng thông tin chung của Trường, tích hợp quy trình chuyển đổi số trong việc triển khai văn bản  và giải quyết thủ tục hồ sơ đến Hội viên, sinh viên. Điển hình cho việc này có thể phân tích trường hợp của hội Sinh viên Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (NEU) ở khu vực miền Bắc và Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (UEH) ở khu vực miền Nam. Cả hai đơn vị này đã tích hợp cổng nguồn truy cập vào văn phòng điện tử tại đơn vị, đăng tải các văn bản Hội vụ trên nền tảng trực tuyến, và tạo điều kiện để sinh viên thực hiện các thủ tục trực tuyến liên quan đến hoạt động Hội (trường hợp của Hội Sinh viên Trường Đại học Kinh tế Quốc dân).

Ảnh 01: Cổng truy cập hệ thống Văn bản phát hành và Thủ tục trực tuyến dành cho Hội viên, Sinh viên trong Văn phòng điện tử tại Trang thông tin của Hội Sinh viên Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (NEU)

(Truy cập tại: https://hoisinhvien.neu.edu.vn/van-phong-dien-tu/

Ảnh 02: Cổng truy cập hệ thống Văn bản điện tử Đoàn – Hội Sinh viên trong Văn phòng điện tử tại Trang thông tin của Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (UEH)

(Truy cập tại: https://youth.ueh.edu.vn/category/van-phong-dien-tu/van-ban-doan-hoi-ueh/

Thực tiễn như trên phản ánh cho thấy cách tiếp cận vấn đề chuyển đổi số nói chung và sử dụng văn bản điện tử nói riêng ở các cấp Hội Sinh viên diễn ra một cách chủ động. Việc giao tiếp văn bản một cách trực tuyến, phi truyền thống đã trở thành đặc điểm quan trọng đối với hoạt động của tổ chức Hội Sinh viên. Trung ương Hội Sinh viên đã tiên phong triển khai Đề án và các giải pháp nhằm đưa văn bản điện tử trở thành công cụ tối ưu hóa phương thức giao tiếp hành chính. Phía các cơ sở Hội cũng đã rất chủ động trong việc ứng dụng văn phòng điện tử và văn bản điện tử vào hoạt động của mình một cách chủ động, phù hợp với đặc thù của đơn vị.

(*) Mặt hạn chế:

Tuy nhiên, tổng quan tình hình thực tiễn sử dụng văn bản điện tử trong các công tác Hội vụ từ cấp Trung ương đến các địa phương vẫn còn tồn đọng một số những hạn chế nhất định, dẫn tới việc triển khai chưa có tính hệ thống, chưa nhất quán, và khách quan nhìn nhận, là chưa có những hiệu quả thiết thực. Dưới đây là đôi điểm hạn chế đúc kết từ thực tiễn việc triển khai sử dụng văn bản điện tử trong công tác Hội:

Một là, công tác chuyển đổi khai thác đưa vào vận hành văn phòng điện tử và văn bản điện tử chưa có được sự đồng bộ từ cấp Trung ương đến cơ sở, chưa có tính hệ thống và bài bản. Trên thực tế, Trung ương Hội Sinh viên đã xác định theo đuổi thực hiện Đề án “Văn phòng điện tử”, cũng như xác lập việc thực hiện chuyển đổi số là mục tiêu trọng tâm trong những năm học gần đây. Tuy nhiên, văn phòng Trung ương Hội chưa ban hành bản Hướng dẫn chính thức liên quan đến việc sử dụng văn bản điện tử nói riêng, văn phòng điện tử nói chung trong công tác trao đổi thông tin giữa các cấp. Điều này dẫn tới việc triển khai ở cấp cơ sở không có sự đồng bộ, tuyến văn bản chưa được thông suốt ở cả chiều đi lẫn chiều đến. Bên cạnh đó, bởi thiếu cơ chế hoạch định rõ ràng, nên ở một số cơ sở Hội, do sự hạn chế về nguồn lực và khả năng tiếp cận công nghệ, không phải tất cả các cơ sở Hội đều có thể thực hiện hiệu quả công tác chuyển đổi số trong xử lý Hội vụ, nhiều đơn vị chưa có kinh nghiệm và nhận thức cơ bản để sử dụng văn bản điện tử. Điều này tất yếu dẫn tới thực trạng thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất trong công tác giao – nhận văn bản giữa cấp Trung ương và cấp cơ sở.

Hai là, ở một số cơ sở Hội, dù đã xây dựng được website chính thức để quản lý công tác Hội vụ, xúc tiến chuyển đổi số để tăng cường tính hiệu quả trong truyền tải thông tin, tuy nhiên, hình thức của các văn bản được ban hành và sử dụng trong giao tiếp hành chính, về bản chất, chưa phải là văn bản điện tử. Các văn bản được đăng tải tại những website của các cơ sở Hội là bản scan màu từ văn bản giấy truyền thống, không bảo đảm được các thành phần cơ bản của văn bản điện tử, đặc biệt là chữ ký số. Bức tranh thực tiễn như vậy xuất phát từ nhận thức chưa đầy đủ và trọn vẹn của một bộ phận cán bộ Hội trong quá trình xây dựng và ban hành văn bản điện tử. Điều này phản ánh trên thực tế sự cần thiết trong việc ban hành Hướng dẫn chính thức từ Trung ương Hội, chú trọng công tác bồi dưỡng nâng cao nhận thức và kỹ năng nghiệp vụ của các cán bộ Hội chuyên trách để có thể đưa vào sử dụng văn bản điện tử đúng với nguyên lý và bản chất dựa trên cơ sở khoa học, tạo được giá trị thực chất trong công tác chuyển đổi số.

Ba là, tuy ở một số đơn vị đã đưa vào sử dụng chức năng văn phòng điện tử và dùng văn bản điện tử như một công cụ giao tiếp hành chính, tuy nhiên, việc triển khai chưa thể hiện rõ ý nghĩa thực tiễn. Ở một số đơn vị, văn bản được đăng tải không thường xuyên và đều đặn, chỉ có số ít văn bản được triển khai trên hệ thống của đơn vị. Chức năng về thủ tục văn bản trực tuyến cũng không khả thi trên trang trực tuyến, còn mang nặng tính hình thức, chưa thật sự đem lại hiệu quả thực tiễn khi vận hành. Việc tiếp cận và hướng dẫn đội ngũ cán bộ Hội và Hội viên, sinh viên tại đơn vị cũng vấp phải các hạn chế nhất định. Số lượng sinh viên tiếp cận về thủ tục trực tuyến và văn bản điện tử chưa được đảm bảo, cũng như không hiểu rõ về vai trò và cách thức vận hành của các công cụ này.

2.3. Một số kiến nghị

Từ những nhận định như đã phân tích, nhóm nghiên cứu đề xuất một số kiến nghị như sau:

Thứ nhất, Trung ương Hội SVVN cần xem xét, nghiên cứu, khảo sát và thực hiện ban hành Hướng dẫn chính thức về việc sử dụng văn bản điện tử và quản lý chữ ký số trong các vấn đề về Hội vụ. Năm 2019, Bộ Nội vụ ban hành Thông tư số 01/2019/TT-BNV ngày 24 tháng 01 năm 2019 về việc quy định quy trình trao đổi, lưu trữ, xử lý tài liệu điện tử trong công tác văn thư, các chức năng cơ bản của hệ thống quản lý tài liệu điện tử. Năm 2020, Chính phủ ban hành Nghị định số 30/2020/NĐ-CP của Chính phủ về công tác văn thư. Đến năm 2021, Văn phòng Trung ương Đảng ban hành Hướng dẫn số 03-HD/VPTW về việc quản lý và sử dụng chữ ký số trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức Đảng. Những văn bản pháp lý này là nguồn tham khảo quan trọng, là khung tham thiếu cần thiết để xây dựng nội dung hướng dẫn ứng dụng vào công tác Hội và phong trào sinh viên. Từ các quy định chung đã được Chính phủ phê duyệt và ban hành, tổ chức Hội Sinh viên cần cụ thể hóa thành Hướng dẫn chính thức để ban hành đến các cơ sở Hội, từ đó, thống nhất được quy trình xây dựng, ban hành, tiếp nhận và quản lý văn bản điện tử trong việc triển khai công tác Hội vụ các cấp. Việc ban hành Hướng dẫn chính thức cũng sẽ giải quyết được tình trạng thiếu hệ thống khi sử dụng văn bản điện tử hiện nay của công tác Hội và phong trào sinh viên, bởi vì sự ra đời của bộ Hướng dẫn cũng là việc xác lập được cơ sở tham khảo nhất quán dành cho các cấp cơ sở Hội, gợi mở phương hướng để triển khai đồng bộ, thực chất, hiệu quả.

Thứ hai, từng bước xây dựng, nghiên cứu, và đưa vào vận hành trục liên thông văn bản điện tử về công tác Hội và phong trào sinh viên. Hiện nay, trục liên thông văn bản quốc gia đã được đưa vào hoạt động từ năm 2019. Trục liên thông văn bản quốc gia là bước đột phá mạnh mẽ về tư duy hành chính, bước đầu hiện thực hóa tầm nhìn xây dựng một chính phủ số vận hành tinh gọn, hiệu quả. Mô hình đã được đưa vào thực tiễn và áp dụng với 95/95 cơ quan ở Trung ương và địa phương (Báo Chính phủ, 2019). Trên thực tế, muốn sử dụng và quản lý văn bản điện tử đòi hỏi cần phải hệ thống hóa trên một nền tảng tích hợp dữ liệu chung. Do vậy, để việc sử dụng văn bản điện tử có thể áp dụng sâu rộng vào thực tiễn triển khai công tác Hội và phong trào sinh viên thì đòi hỏi phải có một trục liên thông văn bản được khai thác và hoạt động theo nhu cầu, đặc điểm và tính chất của tổ chức Hội Sinh viên. Trục liên thông văn bản điện tử của công tác Hội sẽ giúp tổng hợp thông tin, hỗ trợ cán bộ Hội các cấp và Hội viên thuận tiện tiếp cận được quan điểm, chủ trương, phương hướng của các hoạt động Hội; nắm được những thay đổi, điều chỉnh trong khâu tổ chức, cũng như những thay đổi, cập nhật trong tiêu chí xét chọn các danh hiệu, giải thưởng dành cho cá nhân và tập thể. Trục liên thông văn bản điện tử của công tác Hội còn hỗ trợ quản lý một cách hệ thống và hiệu quả các thủ tục hành chính, giấy tờ liên quan đến công tác Hội vụ từ Trung ương đến cấp cơ sở, hỗ trợ công tác kiểm tra, giám sát, và xử lý các tác vụ hành chính, đưa công tác Hội vụ đi vào quỹ đạo vận hành ổn định, bài bản, thống nhất ở quy trình và phương hướng. Mô hình xử lý văn bản trong trục liên thông văn bản điện tử về công tác Hội và phong trào sinh viên từ Trung ương đến cơ sở được nhóm tác giả sơ đồ hóa như sau:

 

Ảnh  03: Sơ đồ thể hiện quy trình xử lý văn bản đến và văn bản đi trong trục liên thông văn bản điện tử từ cấp Trung ương đến cơ sở Hội

(Tham khảo sơ đồ hệ thống quản lý văn bản – liên thông văn bản điện tử của Viện Hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam: https://vast.gov.vn/)

Sơ đồ trên diễn tả quy trình xử lý văn bản của trục liên thông văn bản từ Trung ương Hội đến cơ sở Hội và ngược lại. Cụ thể, văn bản được vận hành theo hai chiều: văn bản đến (do Trung ương Hội ban hành đến cơ sở) và văn bản đi (do các cơ sở Hội trực thuộc xây dựng và báo cáo):

Đối với văn bản đến, đội ngũ cán bộ Trung ương Hội SVVN chuyên trách được phân công thực hiện xây dựng dự thảo văn bản, sau đó gửi về bộ phận Văn phòng Trung ương Hội SVVN để kiểm tra và xác thực về nội dung, thể thức, kỹ thuật liên quan và tham mưu dự thảo đến Ban Thư ký Trung ương Hội SVVN. Ban Thư ký cho ý kiến chỉ đạo cụ thể về nội dung, thể thức, và các vấn đề liên quan đến dự thảo văn bản. Đến đây, phát sinh 02 tình huống: (1) Nếu Ban Thư ký không có ý kiến, tức là cơ bản đồng thuận với các nội dung được đề cập trong phạm vi văn bản được tham mưu, Ban Thư ký tiến hành duyệt ký, chuyển về bộ phận Văn phòng để thực hiện công tác lập hồ sơ điện tử, ký chữ ký số theo quy định của pháp luật và nhập dữ liệu vào phần mềm liên thông văn bản để xử lý kỹ thuật, xác minh tính pháp lý trước khi chuyển văn bản điện tử vào trục liên thông văn bản của công tác Hội và phong trào sinh viên để ban hành đến hệ thống các cơ sở Hội có liên quan trong cả nước, các cơ sở Hội tiếp nhận văn bản đến từ Trung ương Hội thông qua bộ phận Văn phòng, tham mưu ý kiến Ban Thư ký và tiến hành triển khai thực hiện theo quy định; (2) Nếu Ban Thư ký có ý kiến chỉ đạo, đề nghị cần xem xét, chỉnh sửa, bổ sung theo kết luận của tập thể Ban Thư ký, dự thảo văn bản được chuyển về phía đội ngũ cán bộ Hội chuyên trách để tiếp thu chỉnh sửa theo định hướng chỉ đạo, sau đó tiếp tục chuyển đến bộ phận Văn phòng để kiểm tra nội dung, thể thức, kỹ thuật trước khi tái tham mưu bản dự thảo được chỉnh sửa đến Ban Thư ký. Quy trình như vậy tiếp diễn đến khi Ban Thư ký không có thêm ý kiến chỉnh sửa hoặc thay đổi, bổ sung. Khi này, dự thảo văn bản tiếp tục được xử lý theo tình huống (1).

Đối với văn bản đi, quy trình xử lý dự thảo văn bản ở các cơ sở Hội diễn ra tương tự ở cấp Trung ương. Sau khi dự thảo văn bản của cấp cơ sở được đồng ý ban hành, Văn phòng ở cấp cơ sở lập hồ sơ điện tử, ký chữ ký số và nhập dữ liệu vào phần mềm liên thông văn bản để xử lý trước khi chính thức chuyển dữ liệu của văn bản điện tử vào trục liên thông văn bản của công tác Hội trong toàn quốc để quản lý, hệ thống hóa và lưu trữ.

Thứ ba, tăng cường công tác bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ Hội các cấp trong việc triển khai sử dụng văn bản điện tử; nghiên cứu chuyển giao các yếu tố công nghệ hỗ trợ các cấp cơ sở Hội sử dụng hiệu quả văn bản điện tử trong quá trình hoạt động. Cán bộ là nòng cốt khi thực hiện việc chuyển đổi số trong công tác Hội nói chung, và thực hiện hiệu quả công tác giải quyết Hội vụ thông qua việc sử dụng văn bản điện tử nói riêng. Vì vậy, các cơ sở Hội cần chú trọng việc thực hiện bồi dưỡng, rèn luyện các cán bộ Hội triển khai sử dụng hiệu quả văn bản điện tử, hiểu được bản chất và nắm được quy trình ban hành văn bản điện tử, có đủ kiến thức và kỹ năng công nghệ thông tin cần thiết để xử lý Hội vụ trong môi trường điện tử. Trung ương Hội SVVN cần xác định các nội dung tham khảo chủ yếu phục vụ cho công tác bồi dưỡng cán bộ, thông tin rộng rãi và đẩy mạnh việc sử dụng rộng rãi bản Hướng dẫn về việc sử dụng văn bản điện tử và quản lý chữ ký số trong các vấn đề liên quan đến Hội vụ (như đã phân tích ở phần đầu mục này) để tổ chức tập huấn cán bộ Hội. Song song với đó, để khắc phục tình trạng chênh lệch về năng lực tiếp cận công nghệ, khiến quy trình vận hành và sử dụng văn bản điện tử thiếu thông suốt, Trung ương Hội SVVN cần nghiên cứu về việc hỗ trợ chuyển giao các công nghệ cần thiết đến những cơ sở Hội cụ thể cần được hỗ trợ về mặt kỹ thuật, đảm bảo giải quyết hiệu quả bài toán chênh lệch về công nghệ trong nội bộ tổ chức Hội các cấp, đưa việc vận hành văn bản điện tử giải quyết công tác Hội vụ trở thành nhiệm vụ xuyên suốt, cơ bản của công tác Hội và phong trào sinh viên.

  1. Kết luận

Có thể nhận thấy, việc sử dụng văn bản điện tử trong giải quyết các vấn đề Hội vụ của công tác Hội và phong trào sinh viên có ý nghĩa cần thiết, đáp ứng tinh thần Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ XII cũng như chủ trương của các cấp lãnh đạo trong bối cảnh đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số đa lĩnh vực. Trên phương diện lý luận, bài viết nỗ lực phân tích khái niệm “văn bản điện tử”, làm rõ 03 đặc điểm trọng yếu (tính xác thực, tính toàn vẹn, tính chống chối bỏ) và một số thành phần quan trọng cấu thành giá trị pháp lý cho văn bản điện tử, trong đó, chữ ký số là thành phần cơ bản nhất. Bài viết cũng đồng thời phân tích và tiếp cận khái niệm “Hội vụ” trong công tác Hội và phong trào sinh viên, vốn dĩ là khái niệm được sử dụng rộng rãi nhưng chưa có cơ sở chính thức về mặt thông tin để thống nhất cách hiểu và nội hàm của khái niệm này. Bằng việc tiếp cận trung gian khái niệm có tính tương đồng, nội hàm của “Hội vụ” được xác định với 04 đặc trưng cần lưu ý: (1) là một mảng công tác rộng lớn, gồm nhiều nội dung; (2) đòi hỏi cần được hệ thống hóa và xác định các công tác trọng tâm; (3) được triển khai thường xuyên và lâu dài; (4) do các cán bộ Hội chuyên trách thực hiện thông qua bộ phận Văn phòng Hội Sinh viên các cấp. Từ những lập luận đó, bài nghiên cứu phân tích vai trò của văn bản điện tử khi thực hiện giải quyết các vấn đề Hội vụ của công tác Hội và phong trào sinh viên, làm rõ được ưu điểm và tính cần thiết để triển khai sử dụng loại hình văn bản này trong vấn đề Hội vụ các cấp. Trên cơ sở lý luận được xây dựng, nhóm tác giả phân tích bức tranh thực tiễn việc sử dụng văn bản điện tử trong công tác Hội, phát lộ đôi điểm hạn chế cần thiết phải khắc phục: Một là, công tác triển khai thiếu đồng bộ, nhất quán, chưa có tính hệ thống; Hai là, quá trình triển khai chuyển đổi số nói chung, sử dụng văn bản điện tử nói riêng, ở một số cơ sở Hội là chưa thực chất, chưa tiếp cận đúng bản chất và nguyên lý của văn bản điện tử. Bằng việc khai thác cơ sở lý luận và thực tiễn có liên quan, nhóm tác giả đề xuất các kiến nghị giúp sử dụng hiệu quả văn bản điện tử trong việc giải quyết các vấn đề Hội vụ của công tác Hội và phong trào sinh viên. Đó là: (1) cần xem xét, nghiên cứu, khảo sát và ban hành bản Hướng dẫn chính thức về việc sử dụng văn bản điện tử và quản lý chữ ký số trong các vấn đề Hội vụ; (2) từng bước nghiên cứu và đưa vào vận hành trục liên thông văn bản điện tử về công tác Hội và phong trào sinh viên, bài viết cũng đề xuất sơ đồ thể hiện quy trình xây dựng và chuyển tiếp văn bản đến và văn bản đi trên trục liên thông văn bản công tác Hội; (3) tăng cường công tác bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ Hội các cấp trong việc triển khai sử dụng văn bản điện tử, nghiên cứu chuyển giao các yếu tố công nghệ hỗ trợ các cấp cơ sở Hội sử dụng hiệu quả văn bản điện tử trong quá trình hoạt động. Tóm lại, sử dụng văn bản điện tử trong giải quyết các vấn đề Hội vụ của công tác Hội và phong trào sinh viên vừa là động lực, vừa là nhiệm vụ cần thiết đặt ra từ thực tiễn khách quan, có ý nghĩa thực tiễn và quan trọng. Vì vậy, cần đẩy mạnh việc triển khai hiệu quả, bài bản, có hệ thống, đồng bộ, và tạo được những giá trị thực chất, tránh lối vận hành hình thức, bề nổi, thiếu tính ứng dụng.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Ayaz, A, Yanartas, M. (2020). An analysis on the unified theory of acceptance and use of technology theory (UTAUT): Acceptance of electronic document management system (EDMS), 2, 1-7. https://doi.org/10.1016/j.chbr.2020.100032
  2. Báo Chính phủ. (2019). Thủ tướng khai trương Trục liên thông văn bản quốc gia. Nhận từ: https://vpcp.chinhphu.vn/thu-tuong-khai-truong-truc-lien-thong-van-ban-quoc-gia-11521791.htm
  3. Ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. (2022). Hướng dẫn số 12-HD/BTCTW ngày 18 tháng 01 năm 2022 về nghiệp vụ công tác Đảng viên.
    Nhận từ: https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/huong-dan-so-12-hdbtctw-ngay-18012022-cua-ban-to-chuc-trung-uong-ve-nghiep-vu-cong-tac-dang-vien-8319
  4. Bộ Nội vụ. (2019). Thông tư số 01/2019/TT-BNV ngày 24 tháng 01 năm 2019 về việc Quy định quy trình trao đổi, lưu trữ, xử lý tài liệu điện tử trong công tác văn thư, các chức năng cơ bản của Hệ thống quản lý tài liệu điện tử trong quá trình xử lý công việc của các cơ quan, tổ chức. Nhận từ:https://vanban.chinhphu.vn/default.aspx?pageid=27160&docid=196345
  5. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. (2007). Nghị định
    số 64/2007/NĐ-CP ngày 10 tháng 4 năm 2007 về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước. Nhận từ: https://vanban.chinhphu.vn/default.aspx?pageid=27160&docid=22395
  6. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. (2018). Quyết định
    số 28/2018/QĐ-TTg ngày 12 tháng 7 năm 2018 về việc gửi, nhận văn bản điện tử giữa các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước. Nhận từ: https://vanban.chinhphu.vn/default.aspx?pageid=27160&docid=194155
  7. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. (2018). Nghị định
    số 130/2018/NĐ-CP ngày 27 tháng 9 năm 2018 về quy định chi tiết thi hành
    Luật giao dịch về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số. Nhận từ: https://vanban.chinhphu.vn/default.aspx?pageid=27160&docid=194913
  8. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. (2020). Nghị định
    số 30/2020/NĐ-CP ngày 05 tháng 3 năm 2020 về công tác văn thư. Nhận từ: https://vanban.chinhphu.vn/?pageid=27160&docid=199378
  9. Hội Sinh viên Việt Nam. (2014). Chương trình công tác Hội và phong trào Sinh viên năm học 2014-2015. Nhận từ: http://hoisinhvien.com.vn/chuong-trinh-de-an.htm
  10. Hội Sinh viên Việt Nam. (2015). Chương trình công tác Hội và phong trào Sinh viên năm học 2015-2016. Nhận từ: http://hoisinhvien.com.vn/chuong-trinh-de-an.htm
  11. Hung, S., Tang, K., Chang, C., Ke, C. (2009). User acceptance of intergovernmental services: An example of electronic document management system, 26, 387-397. Nhận từ: www.elsevier.com/locate/govinf
  12. Legal Information Institute – Cornell Law School. What is “Electronic Document”?. Nhận từ: https://www.law.cornell.edu/cfr/text/40/3.3
  13. Nguyễn Thị Hà. (2023). Xây dựng và quản lý văn bản điện tử trong bối cảnh chuyển đổi số, 325(1), 62-65. Nhận từ: https://www.quanlynhanuoc.vn/2023/02/20/tap-chi-qlnn-so-325-02-2023/
  14. Nguyễn Văn Chung. (2019). Thực hiện tốt công tác nghiệp vụ đảng viên góp phần thực hiện tốt công tác tổ chức xây dựng Đảng. Nhận từ: https://nghean.dcs.vn/vi-vn/tin/thuc-hien-tot-cong-tac-nghiep-vu-dang-vien-gop-phan-thuc-hien-tot-cong-tac-to-chuc-xay-dung-dang/24021-58053-360995
  15. Vũ Đăng Minh. (2021). Một số vấn đề lý luận về quản lý tài liệu điện tử trong cơ quan hành chính nhà nước. Nhận từ: https://snv.bacgiang.gov.vn/chi-tiet-tin-tuc/-/asset_publisher/aRIn3er4plGA/content/mot-so-van-e-ly-luan-ve-quan-ly-tai-lieu-ien-tu-trong-co-quan-hanh-chinh-nha-nuoc

 

[Lời Ban Biên tập Website]:

Bài viết là toàn văn tham luận của nhóm tác giả VÕ LẬP PHÚC, NGUYỄN PHAN HOÀNG ANH, NGUYỄN THỊ KIM ÁNH, LÊ THANH THOẠI thuộc đơn vị Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh trong khuôn khổ Hội thảo Khoa học trẻ Việt Nam toàn cầu lần thứ II “Thanh niên trong bối cảnh chuyển đổi số” do Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam tổ chức vào ngày 20/9/2023 tại Thủ đô Hà Nội.

Có thể tham khảo tại: Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam. (2024). Kỷ yếu Hội thảo Khoa học trẻ Việt Nam toàn cầu lần thứ II “Thanh niên trong bối cảnh chuyển đổi số”. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.107-108.

ĐÀO TẠO TRỰC TUYẾN VÀ PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG SỐ CHO THANH NIÊN TRONG KỶ NGUYÊN SỐ

Tóm tắt: Trong thời đại kỹ thuật số hiện nay, đào tạo trực tuyến và phát triển kỹ năng số trở nên càng cần thiết hơn để thanh niên có thể nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức và phát triển năng lực. Các nền tảng đào tạo trực tuyến cung cấp cho thanh niên một loạt các khóa học và chứng chỉ từ cơ bản đến nâng cao, trong các lĩnh vực khác nhau, giúp họ có thêm kiến thức và kỹ năng mới. Học trực tuyến cũng giúp thanh niên có thể tận dụng thời gian và không gian linh hoạt để học hỏi và phát triển bản thân. Ngoài ra, để thanh niên có thể tiếp cận nhiều cơ hội việc làm trong thế giới kỹ thuật số, kỹ năng số là một yếu tố then chốt. Việc đào tạo trực tuyến và phát triển kỹ năng số cung cấp cho thanh niên các công cụ hữu ích để trở thành nhân tài có năng lực và khả năng thích nghi với thế giới số ngày càng phát triển. [Read more…]

KINH NGHIỆM ỨNG DỤNG CHUYỂN ĐỔI SỐ CỦA ĐỘI TRÍ THỨC TRẺ TP. HỒ CHÍ MINH TẠI TỈNH ĐỒNG THÁP

Tóm tắt: Xây dựng xã nông thôn mới, “Làng quê đáng sống” là một chủ đề được quan tâm và đầu tư trong những năm gần đây. Tuy nhiên, việc xây dựng xã nông thôn mới không chỉ đơn thuần là xây dựng nhà cửa, mà cần đến nhiều yếu tố khác như cơ sở hạ tầng, kinh tế, xã hội, tri thức, mức độ tiếp cận của người dân về công nghệ… Chuyển đổi số hiện nay đang là xu hướng phát triển của đa số các lĩnh vực, trở thành công cụ không thể thiếu để nâng cao hiệu quả và chất lượng cuộc sống của mỗi người. Điều này đòi hỏi cần có nhiều nguồn lực và sự hỗ trợ của công nghệ để phát triển. Trong đó nguồn lực mạnh mẽ và tiên phong nhất là đến từ thanh niên, thế hệ trí thức trẻ thực hiện thông qua các hoạt động tình nguyện từ đó đóng góp vào công cuộc xây dựng nông thôn mới , “Làng quê đáng sống” và xây dựng đất nước. Từ thực tiễn của Đội trí thức trẻ TP. Hồ Chí Minh tại tỉnh Đồng Tháp, tác giả đã đưa ra các mô hình đã thực hiện gắn với chuyển đổi số, từ đó nghiên cứu đánh giá ưu điểm, nhược điểm của mô hình. Đưa ra các so sánh với đội hình tình nguyện truyền thống. Từ đó rút ra những kinh nghiệm, đề xuất các giải pháp, kiến nghị để thực hiện tốt các hoạt động tình nguyện gắn chuyển đổi số theo hướng trí thức trẻ.

Từ khóa: Chuyển đổi số, trí thức trẻ, thanh niên, tình nguyện

Abstract: Building new rural areas and livable villages is a topic of concern and investment in recent years. However, constructing new rural areas is not only about building houses, but also requires many other factors such as infrastructure, economy, society, knowledge, and people’s access to technology… Digital transformation is currently a development trend in most fields, becoming an indispensable tool to improve the effectiveness and quality of people’s lives. This requires many resources and technological support for development. The most powerful and pioneering resource comes from young people, the young intellectuals who carry out voluntary activities to contribute to the construction of new rural areas, livable villages, and building the country.

Key words: Digital transformation, young intellectuals, young adult, volunteer.

 

  1. Đặt vấn đề

“Thanh niên phải tiên phong trong lao động, sản xuất, sáng tạo, thực hiện chủ trương đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo” – Đó là lời phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ XII.

Cách mạng 4.0 đã và đang thay đổi không chỉ các ngành kinh tế và sản xuất, mà còn ảnh hưởng đến các mối quan hệ xã hội, giáo dục và tình nguyện. Đặc biệt, trí thức trẻ và tình nguyện đóng vai trò rất quan trọng trong tiến trình phát triển của cách mạng 4.0 mà trước hết là hoạt động chuyển đổi số. Vận dụng vào việc xây dựng “Làng quê đáng sống”, xã hội đáng sống.

Trí thức trẻ là những người trẻ tuổi sở hữu kiến thức và khả năng của mình trong các lĩnh vực liên quan đến cách mạng 4.0. Tuy nhiên, chuyển đổi số đòi hỏi họ cần phải cập nhật liên tục kiến thức, kỹ năng mới qua các hoạt động đào tạo và nghiên cứu. Để thực hiện được điều này, trí thức trẻ cần có sự đồng hành của các tổ chức, doanh nghiệp và cộng đồng để tạo ra những môi trường học tập, trao đổi, huấn luyện và thực hành mới phù hợp với yêu cầu của cách mạng 4.0.

Tình nguyện cũng đóng vai trò không thể thiếu trong sự chuyển đổi số này. Hoạt động tình nguyện giúp trí thức trẻ rèn luyện kỹ năng, tìm hiểu thêm về cách mạng 4.0 và đóng góp những ý tưởng sáng tạo của mình cho cộng đồng. Tình nguyện còn có thể thúc đẩy sự thay đổi cách suy nghĩ, giúp trí thức trẻ hiểu rõ hơn về ý nghĩa của việc chuyển đổi số, tạo ra những thông điệp tích cực hướng tới một cộng đồng, một thế giới tốt đẹp hơn.

Tuy nhiên, việc tận dụng trí thức trẻ và tình nguyện trong sự chuyển đổi số còn gặp nhiều khó khăn. Đối với trí thức trẻ, thị trường lao động sôi động với nhiều cơ hội mới làm cho họ thường xuyên bị xao nhãng tâm trí, từ đó bỏ lỡ các hoạt động tình nguyện tiềm năng. Đối với tình nguyện, việc thiếu nguồn lực, vật chất và các chính sách hỗ trợ thích hợp của chính phủ cũng khiến cho việc phát triển tình nguyện gặp nhiều khó khăn.

Do đó, để tận dụng tối đa trí thức trẻ và tình nguyện trong sự chuyển đổi số, cần phải xây dựng các chiến lược, các chính sách quan trọng về cả trí thức trẻ và tình nguyện. Các chính sách này cần đảm bảo cơ hội, sự khuyến khích và động viên trí thức trẻ để tham gia các hoạt động tình nguyện, cần thúc đẩy quá trình tập huấn, đào tạo, nghiên cứu để trí thức trẻ có thể theo kịp xu hướng phát triển cách mạng 4.0. Các chính sách này cũng cần đẩy mạnh hơn nữa việc hỗ trợ nguồn lực, vật chất, pháp lý, đóng góp cho sự phát triển tình nguyện và sự chuyển đổi số.

Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội trong thời đại hiện nay, việc xây dựng “Làng quê đáng sống” và xã nông thôn mới là một nhiệm vụ vô cùng cấp bách. Từ đó, nhiều công trình được triển khai để cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân nông thôn, đặc biệt là trong các tỉnh miền Tây. Và để đạt được mục đích đó, nhiều kinh nghiệm ứng dụng chuyển đổi số từ Đội Trí thức Trẻ TP. Hồ Chí Minh đã được cộng đồng nông thôn tại tỉnh Đồng Tháp áp dụng thành công. Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu về những kinh nghiệm ứng dụng chuyển đổi số của Đội Trí thức Trẻ TP. Hồ Chí Minh tại tỉnh Đồng Tháp để xây dựng “Làng quê đáng sống” và xã nông thôn mới.

Tìm hiểu về quá trình chuyển đổi số tại Đội Trí thức Trẻ TP. Hồ Chí Minh tại tỉnh Đồng Tháp, những ứng dụng tiên tiến trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông để giúp cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân nông thôn. Đồng thời, bài viết cũng sẽ phân tích các kết quả đã đạt được trong quá trình thực hiện dự án, đánh giá hiệu quả của các giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin đối với phát triển kinh tế – xã hội tại các vùng nông thôn. Nhờ đó, chúng ta sẽ nắm được những kinh nghiệm thực tiễn và đưa ra các giải pháp hiệu quả để đóng góp vào sự phát triển của đất nước.

Tóm lại, trí thức trẻ và tình nguyện đóng vai trò rất quan trọng trong sự chuyển đổi số của cách mạng 4.0. Việc tận dụng tối đa trí thức trẻ và tình nguyện cũng cần có sự đồng hành của các chính sách phù hợp, giúp tạo ra cân bằng giữa quyền lợi của trí thức trẻ, tình nguyện và sự phát triển của cộng đồng và xã hội.

  1. Cơ sở lý luận

2.1. Các khái niệm

Trí thức: khái niệm trí thức được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Theo Giáo sư Ngô Bảo Châu, trí thức được hiểu là “người lao động trí óc”, “giá trị của trí thức là giá trị của sản phẩm mà họ làm ra,…”. Hay một quan điểm khác lại cho rằng: “Trí thức là người có kiến thức sâu xa về một hay nhiều lĩnh vực hơn sự hiểu biết của mặt bằng chung của xã hội vào từng thời kỳ”. Định nghĩa về trí thức, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng viết: “những người lao động trí óc”, “là thầy giáo, thầy thuốc, kỹ sư, những nhà khoa học, văn nghệ, những người làm bàn giấy…”. Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam lại định nghĩa trí là tầng lớp xã hội làm nghề lao động trí óc, trong đó, bộ phận chủ yếu là những người có học vấn, hiểu biết sâu rộng về chuyên môn của mình, có sáng tạo và phát minh. Tại Nghị quyết số 27/NQ/TW ngày 06/08/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng cũng đã đưa ra định nghĩa cụ thể về trí thức: “Tri thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm vật chất và tinh thần có giá trị cho xã hội”. Vì vậy, điểm khác biệt để phân biệt trí thức với các tầng lớp khác trong xã hội là trí thức làm việc bằng trí óc. Họ thường nhạy bén với cái mới, tiếp thu những tư tưởng đổi mới, tiến bộ và phổ biến đến nhân dân, có vai trò to lớn đối với sự phát triển của lịch sử, nhất là trong thời đại mới, thời đại của công nghệ 4.0.

Trí thức trẻ tình nguyện được ghép bởi hai cụm từ “trí thức” và “tình nguyện” xen giữa là từ “trẻ”. Từ định nghĩa trí thức ở trên, chúng ta có thể hiểu trí thức trẻ tình nguyện là những con người trẻ, nhiệt huyết, tận tâm vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm và tài năng của mình để sử dụng trong các hoạt động tình nguyện nhằm mang lại lợi ích cho cộng đồng. Đây là một hình thức tình nguyện mới, khác với tình nguyện lao động hay hiện vật, mang tính chất chuyên môn và thường được triển khai bởi các chuyên gia, nhà nghiên cứu trẻ.

Chuyển đổi số được định nghĩa là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên các công nghệ số. Trên thế giới, chuyển đổi số bắt đầu được nhắc đến nhiều vào khoảng năm 2015, phổ biến từ năm 2017. Ở Việt Nam, chuyển đổi số bắt đầu được nhắc đến nhiều vào khoảng năm 2018. Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia vào ngày 03/6/2020. Chuyển đổi số là bước phát triển tiếp theo của tin học hóa, có được nhờ sự tiến bộ vượt bậc của những công nghệ mới mang tính đột phá, nhất là công nghệ số.

“Làng quê đáng sống” ngày nay có thể hiểu theo nhiều khía cạnh. Nhưng khía cạnh đơn giản có thể hiểu là nơi có môi trường sống trong lành, an toàn cho sức khỏe của cư dân. Nơi đó cần phải được đảm bảo về an ninh, trật tự và đủ các tiện ích cơ bản để đáp ứng nhu cầu cuộc sống hàng ngày. Có sự gắn kết giữa cộng đồng, tình thân ái lửa, đoàn kết với nhau trong tất cả các hoạt động. Có sự ổn định về kinh tế, phù hợp với diện tích, tài nguyên của địa phương, phát triển trang trại, nông nghiệp, thương mại nhỏ, du lịch nông thôn và các ngành nghề khác. Bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống, phong tục tập quán của làng quê. Có khả năng phát triển bền vững, hài hòa với tự nhiên, không gây ra thiệt hại hoặc ô nhiễm môi trường,… Tóm lại, một “Làng quê đáng sống” là nơi cư dân được sống trong môi trường sống lành mạnh, hạnh phúc, gắn kết bền vững, với các tiện ích cơ bản, các hoạt động phát triển kinh tế và văn hóa, cùng với việc giữ gìn và bảo vệ môi trường xung quanh.

Nếu xét theo tính đặc điểm, mô hình “”Làng quê đáng sống”” là một mô hình phát triển nông thôn bền vững, hướng đến mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân nông thôn. Mô hình này thường có những đặc điểm chung sau:

– Tập trung vào phát triển kinh tế xã hội địa phương: mô hình làm việc tập trung vào việc xây dựng các địa điểm kinh doanh địa phương, phát triển các sản phẩm địa phương và thúc đẩy kinh tế địa phương.

– Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên: mô hình thường có sự quan tâm sâu sắc đến bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên, để đảm bảo sự bền vững của mô hình.

– Phát triển cộng đồng: mô hình đặc biệt chú trọng vào việc tạo ra một cộng đồng đoàn kết, hỗ trợ lẫn nhau, và tăng cường sự gắn kết giữa thành phố và nông thôn.

– Tăng cường an sinh xã hội: mô hình đặc biệt chú trọng vào việc nâng cao chất lượng cuộc sống, bao gồm các yếu tố như giao thông thuận tiện, trường học và chợ địa phương, dịch vụ y tế và các tiện ích khác.

Tổng quát, mô hình “”Làng quê đáng sống”” nhằm tạo ra một môi trường sống lành mạnh và bền vững cho người dân nông thôn, tăng cường sự phát triển kinh tế và xã hội địa phương và đảm bảo bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên.

Chuyển đổi số đang có vai trò quan trọng trong việc cải thiện đời sống cho người dân ở các khu vực nông thôn, bao gồm cả mô hình “Làng quê đáng sống”. Một số ảnh hưởng của chuyển đổi số đối với mô hình “Làng quê đáng sống” có thể bao gồm:

– Cải thiện năng suất và hiệu quả sản xuất: Công nghệ số có thể giúp cho người nông dân quản lý đất đai, cây trồng và động vật hiệu quả hơn, điều này giúp tăng năng suất và lợi nhuận cho họ.

– Cung cấp những dịch vụ tài chính tiện lợi: Công nghệ số cho phép người dân nông thôn thực hiện các giao dịch tài chính qua mạng, điều này giúp tiết kiệm thời gian và tiền bạc cho họ.

– Cải thiện trình độ học vấn: Công nghệ số cung cấp nhiều cơ hội để học tập và nâng cao trình độ chuyên môn. Chẳng hạn như dùng điện thoại thông minh để truy cập các khóa học trực tuyến.

– Cải thiện hạ tầng và tiện ích: Công nghệ số giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân nông thôn bằng cách kết nối họ với đường thông tin, điện, nước và các tiện ích khác.

– Tạo ra các cơ hội kinh doanh mới: Công nghệ số giúp tạo ra các cơ hội kinh doanh mới cho người dân nông thôn, bao gồm cả việc tiếp cận với thị trường quốc tế.

Chuyển đổi số có thể giúp cho mô hình “Làng quê đáng sống” phát triển, cải thiện đời sống cho người dân nông thôn và giúp tạo ra các cơ hội mới cho họ

Việc gắn kết giữa trí thức trẻ tình nguyện trong công cuộc chuyển đổi số để xây dựng “Làng quê đáng sống” là đóng góp cho sự phát triển của làng quê. Bằng cách tận dụng tri thức và sức mạnh của người trẻ để xây dựng cộng đồng xã hội vững mạnh, tăng cường giá trị sống và yêu thương bền vững cho những người dân trong làng.

2.2. Các chính sách về chuyển đổi số trong hoạt động tình nguyện của thanh niên, của đội ngũ trí thức trẻ

Ngay từ khi xuất hiện làn sóng Cách mạng công nghệ 4.0, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách chủ động tận dụng cơ hội này, đó là khuyến khích ứng dụng công nghệ số để phát triển kinh tế – xã hội. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số cũng được xác định là động lực chính của tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời gian tới (theo Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021-2030).

Các chủ trương, chính sách lớn về chuyển đổi số của Việt Nam được thể hiện qua thông qua:

– Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

– Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021-2030 (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng).

– Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.

– Quyết định 411/QĐ-TTg ngày 31/03/2022 Phê duyệt “Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.

– Quyết định số 146/QĐ-TTg ngày 28/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Nâng cao nhận thức, phổ cập kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

Như vậy Việt Nam là một trong những quốc gia đi đầu về ban hành chương trình, chiến lược chuyển đổi số quốc gia.

Còn đối với thanh niên, gồm các chính sách phát triển:

Trong những năm gần đây, nhiều văn bản quy phạm pháp luật, chính sách dành cho thanh niên đã ra đời, tiêu biểu như:

– Luật Thanh niên năm 2020.

– Quyết định số 1331/QĐ-TTg ngày 24/7/2021 ban hành Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2021-2030.

– Quyết định số 1331/QĐ-TTg có đặt ra quan điểm về phát triển thanh niên như sau: “Chiến lược phát triển thanh niên là một bộ phận cấu thành của Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2021-2030, Chiến lược phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2021-2030 và Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, điều này thể hiện sự quan tâm của Chính phủ đối với giới trẻ và kỳ vọng thanh niên là lực lượng nòng cốt trong thực hiện chuyển đổi số quốc gia.

Và trong đó Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã xây dựng và triển khai Đề án “Nâng cao năng lực số cho thanh thiếu niên Việt Nam giai đoạn 2022-2030”. Với mục tiêu của đề án là nâng cao năng lực số nhằm hỗ trợ thanh thiếu niên nâng cao nhận thức, thái độ; trang bị kiến thức, kỹ năng phục vụ giao tiếp xã hội, học tập, nghiên cứu, giải trí, làm việc, khởi nghiệp sáng tạo… trong bối cảnh chuyển đổi số. Các cấp bộ Đoàn phấn đấu đến năm 2030, trên 80% thanh thiếu niên được tiếp cận các hoạt động nâng cao năng lực số do tổ chức Đoàn, Hội, Đội các cấp triển khai thực hiện; hơn 80% thanh niên sử dụng dịch vụ công trực tuyến; hơn 90% thanh niên sử dụng tài khoản thanh toán điện tử.

Và gần đây nhất, vào ngày 09/01/2023 tại Hội nghị BCH Trung ương Đoàn lần thứ 2, khóa XII đã quyết định chọn chủ đề công tác năm 2023 là: “Năm chuyển đổi số các hoạt động của Đoàn”. Với việc chọn chủ đề công tác “Năm chuyển đổi số các hoạt động của Đoàn” là một nội dung mới, rất khó nhưng cho thấy các cấp bộ Đoàn trong cả nước đồng lòng, quyết liệt thực hiện chuyển đổi số trong các nhiệm vụ và chủ động thực hiện các nội dung chương trình, nhằm thúc đẩy chung tay trong công cuộc chuyển đổi số quốc gia.

Từ những điều kiện về cơ sở lý luận đó, thanh niên thế hệ Việt Nam, trí thức trẻ cần ra sức đi đầu trong công cuộc chuyển đổi số này. Bởi lẻ, trong công cuộc này thanh niên không phải là người chuyển đổi số thì sẽ là ai?.

2.3. Vai trò của trí thức – khoa học trẻ tình nguyện trong công cuộc chuyển đổi số

Tri thức và khoa học đóng vai trò rất quan trọng trong chuyển đổi số. Những người trẻ tuổi hiện nay đã là thế hệ đã sinh ra và lớn lên trong môi trường sống số hóa, họ có tri thức và kỹ năng trong nhiều lĩnh vực khác nhau liên quan đến công nghệ thông tin, internet và lĩnh vực thuộc chuyển đổi số.

Sự kết hợp giữa trí thức và tình nguyện của giới trẻ hiện nay đã tạo ra một làn sóng tích cực trong hoạt động tình nguyện ở nhiều lĩnh vực. Trí thức tình nguyện đóng vai trò quan trọng trong xây dựng cộng đồng, xây dựng đất nước phát triển, đặc biệt trong thời đại công nghệ 4.0, nó đóng góp đáng kể cho sự phát triển bền vững và thịnh vượng của đất nước. Là một phần quan trọng và không thể thiếu trong công cuộc chuyển đổi số hiện nay. Đóng vai trò chủ chốt trong việc xác định và triển khai các ứng dụng công nghệ mới và giải quyết các vấn đề phức tạp phát sinh trong quá trình chuyển đổi số.

Vì những điều đó, trí thức – khoa học trẻ tình nguyện đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong công cuộc chuyển đổi số như:

Thứ nhất, nghiên cứu và phát triển các ứng dụng, sản phẩm công nghệ số mới: Trí thức trẻ có thể tận dụng kiến thức và kinh nghiệm để tạo ra các sản phẩm công nghệ mới, từ smartphone, ứng dụng, trò chơi, website cho đến các sản phẩm sáng tạo khác trong các lĩnh vực kinh tế và xã hội.

Thứ hai, tạo ra giá trị số: Các bạn trẻ có thể tham gia vào việc tạo giá trị cho thành phố, địa phương và người dân bằng cách đưa ra các giải pháp công nghệ mới và sáng tạo.

Thứ ba, xây dựng cộng đồng trực tuyến: Những trí thức trẻ giờ đây không chỉ đã biết cách sử dụng các nền tảng trực tuyến mà còn biết cách tạo ra và quản lý các cộng đồng trực tuyến. Xây dựng các website, app mới, giúp cho việc tiếp cận thông tin và truyền thông, tăng cường khả năng quản lý dữ liệu và quản trị cho các tổ chức. Là những công cụ tuyệt vời để kết nối mọi người trong cộng đồng và chia sẻ thông tin, đồng thời tạo dựng một cộng đồng bền vững với tình yêu và kỹ năng.

Thứ tư, tham gia vào các hoạt động giáo dục và đào tạo về chuyển đổi số: trí thức trẻ có thể giúp đỡ trong việc xây dựng các hệ thống giáo dục và đào tạo mới phát triển kỹ năng chuyển đổi số cho cộng đồng, giúp nâng cao khả năng sử dụng công nghệ và tăng cường độ tin cậy cho các giải pháp công nghệ mới.

Thứ năm, tư vấn và hỗ trợ người dân trong việc sử dụng công nghệ giúp đỡ và tư vấn cho người dân trong việc sử dụng công nghệ, đồng thời giúp giải đáp các thắc mắc và khó khăn có liên quan đến chuyển đổi số. Giúp các trẻ em và người dân có được các kỹ năng cần thiết để để sử dụng công nghệ trong cuộc sống tham gia và phát triển trong môi trường số hóa.

Thứ sáu, tạo ra sự đổi mới và thách thức các giá trị thông thường: Trí thức trẻ có khả năng đưa ra những ý tưởng mới, táo bạo và đổi mới, giúp đẩy nhanh sự phát triển và thách thức các giá trị thông thường, từ các công nghệ chắp cánh đến kiến trúc đô thị, mang lại những thay đổi đáng kể đối với cuộc sống của mọi người.

Tóm lại với những vai trò trên, khi trí thức trẻ tham gia vào công cuộc chuyển đổi số, vận dụng các giá trị, kinh nghiệm, kiến thức thực tiễn từ chuyển đổi số để ứng dụng vào hoạt động xã hội và tình nguyện hỗ trợ cho cộng đồng sẽ giúp tạo ra giá trị kinh tế và xã hội mới. Đóng góp cho cộng đồng và đất nước trong việc phát triển và chuyển đổi số.

  1. Thực tiễn tại địa phương

Thực hiện Kế hoạch số 524-KH/TWĐTN-TNNT ngày 03/06/2022 của Ban Bí thư Trung ương Đoàn về Tổ chức Mạng lưới Trí thức trẻ tham gia xây dựng nông thôn mới và thành lập 10 Đội hình Trí thức trẻ chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho thanh niên, người dân trong Chiến dịch thanh niên tình nguyện hè năm 2022.

Thành phần gia gia Đội hình Trí thức trẻ chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho thanh niên người dân gồm: các giảng viên trẻ, sinh viên, nhà khoa học trẻ, thanh niên nông thôn làm kinh tế giỏi,… thành lập đội thanh niên tình nguyện để hỗ trợ các địa phương xây dựng nông thôn mới thôn bản.

Với các nhiệm vụ như: tổ chức nghiên cứu, khảo sát điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội, phân tích, đánh giá lợi thế của địa phương, tham gia hỗ trợ phát triển nông thôn mới. Được thực hiện ở các làng, các khu định cư để vận động, phổ biến, đào tạo, hướng dẫn và chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật cho thanh niên và nhân dân. Hỗ trợ, hướng dẫn thanh niên và người dân sử dụng công nghệ số để kiểm soát chất lượng và chỉ dẫn địa lý. Thiết lập các mối quan hệ thương mại trên các nền tảng thương mại điện tử. Cách thức đăng ký và xây dựng nhãn hiệu nông sản Việt. Công nghệ chế biến, bảo quản nông sản, thực phẩm sạch. Kết nối với doanh nghiệp và người tiêu dùng. Ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số và chuyển đổi số trong phát triển kinh tế nông thôn hướng tới kinh tế tuần hoàn, kinh tế số. Thực hiện truy xuất nguồn gốc nông sản chủ lực, sản phẩm OCOP của địa phương.

Đội hình của thành đoàn Thành phố Hồ Chí Minh được phân công triển khai hoạt động tại Ấp 01, xã Tân Kiều, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp (là địa điểm do Trung ương Đoàn lựa chọn hỗ trợ xây dựng mô hình “Làng quê đáng sống”).

Nhận được nhiệm vụ ý nghĩa đó, ngày 15/07/2022 Thành đoàn TP. Hồ Chí Minh tổ chức Lễ ra quân Đội hình Tình nguyện trí thức trẻ chuyển giao tiến bộ kỹ thuật hỗ trợ tại tỉnh Đồng Tháp. Qua đó tập hợp, phát huy tinh thần xung kích tình nguyện của lực lượng trí thức trẻ, giúp cho đoàn viên thanh niên và người dân tiếp cận nhiều hơn với các hoạt động khoa học công nghệ, chuyển đổi số, cũng như hỗ trợ các hoạt động xây dựng nông thôn mới.

Đội hình bao gồm 26 trí thức trẻ tình nguyện thường trực do Trung tâm Phát triển Khoa học và Công nghệ Trẻ – Thành đoàn TP. Hồ Chí Minh phụ trách được chia thành 6 đội hình chính bao gồm: Đội hình Tư vấn phát triển nông nghiệp; Đội hình Cải cách hành chính; Đội hình Tư vấn các kỹ năng sống cho học sinh; Đội hình Công nghệ thông tin; Đội hình Tổ chức Chuyến xe công nghệ; Đội hình Tư vấn và chăm sóc sức khỏe. Các đội hình đã triển khai các hoạt động trên địa bàn huyện Tháp Mười – tỉnh Đồng Tháp từ ngày 17/7 đến ngày 30/7/2022. Với các hoạt động đa dạng như: tư vấn phát triển nông nghiệp, du lịch cộng đồng, cải cách hành chính, chuyển đổi số, tập huấn các kỹ năng sống và tổ chức sân chơi khoa học cho học sinh.

3.1. Mô hình chuyển đổi số tại địa phương

Với mục tiêu là chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho thanh niên, người dân tại địa phương gắn với các hoạt động khoa học công nghệ, chuyển đổi số qua giúp người dân tiệm cận hơn với cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Ngay từ đầu khi thành lập đội hình, các trí thức trẻ cùng Ban tổ chức chương trình đã xem xét, lên các phương án, kế hoạch cụ thể để triển khai hoạt động. Đưa những nội dung cốt lỗi, thực tiễn phù hợp với tình hình tại địa phương và mục tiêu tôn chỉ của Trung ương Đoàn đặt ra.

06 đội hình với hình thức, phương án hoạt động khác nhau nhưng trọng tâm nội dung hoạt động đều là khoa học công nghệ và chuyển đổi số.

Đối với Đội hình Cải cách hành chính: nòng cốt thành viên là các bạn sinh viên đến từ Học viện Cán bộ TP.HCM. Với kiến thức chuyên môn vận dụng vào các phần việc thực tiễn với tôn chỉ “tập sự phục vụ nhân dân”. Đội hình đã đến 03 UBND xã tại huyện Tháp Mười (xã Tân Kiều, xã Mỹ An, xã Mỹ Hòa) để hỗ trợ hoạt động cải cách hành chính, giúp đỡ hướng dẫn người dân khi đến Ủy ban thực hiện các thủ tục. Hỗ trợ nhập hơn 3000 dữ liệu tiêm ngừa vắc xin Covid-19, nhập hơn 1000 mã định danh, hỗ trợ hơn 2000 lượt hồ sơ trực tuyến, sắp xếp và lưu trữ hơn 2500 hồ sơ, hỗ trợ hơn 300 lượt người dân đăng ký và sử dụng ứng dụng Bảo hiểm xã hội VssID…. Thực hiện tập huấn chuyên đề Dịch vụ công trực tuyến cấp độ 3-4, ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác lưu trữ  tại Trường THPT Tháp Mười dưới sự tham gia các công chức, viên chức thuộc Huyện Tháp Mười. Đặc biệt đội hình đã giúp UBND các xã chuyển đổi số, số hóa thông tin dữ liệu lên hệ thống, xây dựng webside và ra mắt cổng thông tin điện tử cho 03 xã. Song đội hình còn giúp 03 xã tạo lập trang thông tin trên mạng xã hội Facebook.  Mã hóa bằng mã QR code tuyên truyền cho người dân biết và truy cập, theo dõi để biết các thông tin về hoạt động cũng như thông báo từ chính quyền đến với người dân.

Đối với Đội hình Tư vấn phát triển nông nghiệp: Đội hình đã thực hiện các chuyên đề về chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp như: “Đăng ký tem, mã cho sản phẩm nông nghiệp nông thôn và truy xuất nguồn gốc cho nông sản”; “Phát triển du lịch cộng đồng cho nông thôn”; Nắm bắt tình hình thực tiễn tại địa phương, đội hình báo cáo đã chuyên đề “Ứng dụng chuyển đổi số, số hóa trong xây dựng An ninh Quốc phòng gắn với sản xuất và phát triển nông thôn mới” cho nông dân, dân quân tự vệ của các xã trên địa bàn huyện Tháp Mười. Chuyên đề Kinh doanh trên các sàn thương mại điện tử. Đội hình tham gia Chương trình “Trải nghiệm một ngày làm cùng nông dân” theo chủ đề “Bảo quản xử lý sau thu hoạch và tiêu chuẩn sản phẩm OCOP”, trong đó Đội hình thực hiện báo cáo chuỗi các chuyên đề về nông nghiệp như: “Ứng dụng chuyển đổi số trong chương trình OCOP”, “Bộ tiêu chí đánh giá và phân hạng sản phẩm theo chương trình OCOP”,…

Đối với Đội hình Tư vấn các kỹ năng sống cho học sinh: việc chuyển đổi số cũng được chú trọng thông qua thực hiện các chuyên đề “Quản lý tài chính cá nhân” – hướng dẫn các em học sinh sử dụng các ứng dụng, phần mềm, tiện ích trên điện thoại thông minh, máy tính để quản lý tài chính cá nhân hiệu quả; Tập huấn Phương pháp học tập bằng sơ đồ tư duy – Mindmap; Chuyên đề “Cảm hứng học môn Lịch sử và phát triển truyền thống lịch sử địa phương” thông qua các trang tin, cổng thông tin của địa phương; Chuyên đề: Kiến thức công nghệ số cho trẻ em và những điều phụ huynh nên biết.

Đội hình Chuyến xe Công nghệ: Hành trình Chuyến xe Công nghệ tổ chức các buổi sân chơi Khoa học vui qua những thí nghiệm khoa học được vận dụng kiến thức từ các môn học cùng với các gian hàng trò chơi khoa học; Trải nghiệm kính thực tế ảo; Trải nghiệm thư viện đọc sách của Chuyến xe Công nghệ; Trên Chuyến xe Công nghệ, các em học sinh được tham gia cuộc thi “Tài năng Anh ngữ TP. Hồ Chí Minh năm 2022 – Genius in English”, tổ chức Minigame với bộ câu hỏi Tư duy sáng tạo, lớp học lập trình Scarch;…

Đội hình Công nghệ thông tin: Thực hiện lắp ráp 20 máy tính từ Chương trình Máy tính cũ – Tri thức mới tại Trường Tiểu học Tân Kiều 1. Nơi đây cũng là địa điểm diễn ra các lớp học Internet dành cho học sinh. Đội hình tổ chức các lớp học thiết thực về công nghệ thông tin như: “Hướng dẫn thiết kế Poster trên nền tảng Canva”; buổi giảng về lập trình Website cho các em học sinh trường THCS Tân Kiều; Khai giảng và thực hiện lớp hướng dẫn sử dụng Smartphone và Internet dành cho người dân. Sửa chữa máy tính cho người dân; Khai giảng và thực hiện lớp tin học căn bản, sử dụng Internet cho người dân; Tập huấn: Kỹ năng bảo mật, an toàn thông tin cá nhân trên không gian mạng; Ứng dụng phần mềm công nghệ trong thiết kế bài giảng, thiết kế học tập;…

Đội hình Tư vấn và chăm sóc sức khỏe: Thực hiện chuyên đề “Chăm sóc sức khỏe cho học sinh” thu hút hơn 55 học sinh tham gia. Trong chuyên đề, Đội hình đặc biệt nhấn mạnh tuyên truyền pháp luật phòng, chống xâm hại cho trẻ em và luật bảo vệ trẻ em nhằm nâng cao nhận thức cho trẻ em tại Trung tâm Văn hóa Cộng đồng xã Tân Kiều;…

3.2. Hiệu quả thực hiện – Đánh giá

Việc xây dựng các kế hoạch, hành động thực hiện của chương trình phải lồng ghép vào đó các hoạt động có liên quan đến chuyển giao tiến bộ kỹ thuật đặc biệt là những nội dung về chuyển đổi số thật sự rất khó. Tuy nhiên, đội hình đã cố gắng thích ứng và đưa vào đảm bảo phù hợp với tiêu chí, mục tiêu mà Trung ương Đoàn đã đề ra cho đội hình.

Trong bối cảnh Chính phủ đang nỗ lực thúc đẩy chuyển đổi số gia tăng, Đội Trí thức Trẻ TP. Hồ Chí Minh đã thực hiện một mô hình thành công, tạo nên kinh nghiệm rất đáng quý để áp dụng chuyển đổi số trong xây dựng “Làng quê đáng sống” tại Đồng Tháp.

Nhờ vào ứng dụng công nghệ thông tin và kết hợp các hoạt động tình nguyện, đội trí thức trẻ của TP. Hồ Chí Minh đã giúp cộng đồng nông thôn tại Đồng Tháp giải quyết nhiều vấn đề, như cải thiện môi trường, nâng cao sản xuất nông nghiệp và đảm bảo an toàn cho người dân.

Việc áp dụng chuyển đổi số trong xây dựng “Làng quê đáng sống” tại Đồng Tháp có thể là một bước ngoặt quan trọng, giúp tăng trưởng kinh tế, phát triển nông thôn bền vững và cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân. Với sự phát triển của công nghệ thông tin, mô hình này có thể được mở rộng, ứng dụng vào các lĩnh vực khác và giúp cho Việt Nam đạt được mục tiêu của Chính phủ trong việc thúc đẩy chuyển đổi số, tăng trưởng kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống cho tất cả người dân.

Nhìn chung hiệu quả chuyển giao, và cách tiệm cận của người dân, thanh niên tại địa phương phản ánh là tương tốt thông qua các buổi tập huấn chuyên đề số lượt tham gia ngày càng đông và nhu cầu tiếp cận của người dân nơi đây là rất nhiều. Học sinh, các em nhỏ ở nơi đây tiếp cận được nhiều hơn với những tiện ích thông minh, vận dụng tối ưu hiệu quả các thiết bị di động thông minh phục vụ cho việc học tập và quản trị đời sống hằng ngày. Đội tình nguyện trí thức trẻ đã cung cấp kiến thức chuyên môn, thông tin cập nhật và giải pháp khoa học công nghệ để hỗ trợ cộng đồng tại địa phương trong các lĩnh vực như nông nghiệp, chăn nuôi, kinh tế, tâm lý, giáo dục,… Tổ chức các khóa đào tạo sử dụng Internet cho cộng đồng nông thôn, giúp người dân có thêm kỹ năng và kiến thức cần thiết để tăng cường năng lực sống và phát triển bền vững. Giúp các thanh niên trẻ phát triển kỹ năng, khai thác tối đa tiềm năng trí tuệ của mình và thúc đẩy họ tham gia vào các hoạt động tình nguyện, góp phần xây dựng và phát triển cộng đồng nông thôn.

Từ đó có thể thấy, đội tình nguyện trí thức trẻ có thể giúp tăng khả năng vượt qua các thách thức, cải thiện chất lượng cuộc sống của cộng đồng nông thôn và thúc đẩy sự phát triển bền vững của vùng. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả cao nhất, đội tình nguyện trí thức trẻ cần được tổ chức và thực hiện hoạt động đầy đủ và chuyên nghiệp.

  • Nhận định sự khác nhau với đội hình tình nguyện truyền thống

Với đặc thù là đội hình trí thức trẻ, việc tình nguyện là mang tri thức mới đến gần hơn với người dân, thanh niên ở xã nông thôn. Khác với các mô hình, đội hình tình nguyện nguyện truyền thống thường hoạt động trong nhiều lĩnh vực như giáo dục, y tế, môi trường, xây dựng cộng đồng, giúp đỡ người khuyết tật, trẻ em và người già. Các hoạt động này thường xoay quanh việc giúp đỡ, hỗ trợ và nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng. Trong khi đó, đội tình nguyện trí thức trẻ thường tập trung vào việc cung cấp kiến thức chuyên môn cho cộng đồng thông qua việc đào tạo kỹ năng chuyên môn, tư vấn giải pháp khoa học công nghệ, tổ chức các hoạt động sáng tạo và đổi mới.

Phương pháp hoạt động: Cả hai loại đội tình nguyện này đều hoạt động dựa trên nguyên tắc tình nguyện và giúp đỡ cộng đồng, nhưng có sự khác biệt về phương pháp. Đội tình nguyện truyền thống thường sử dụng các công cụ và kĩ thuật đơn giản như sơn, cây trồng, vệ sinh,… để giải quyết các vấn đề cụ thể. Trong khi đó, đội tình nguyện trí thức trẻ sử dụng các công nghệ, phương pháp đổi mới để đưa ra các giải pháp đột phá cho các vấn đề cụ thể.

Kiến ​​thức và kinh nghiệm: Đội tình nguyện truyền thống thường có nhiều thành viên có kinh nghiệm và kiến ​​thức cơ bản trong lĩnh vực của họ như y khoa, giáo dục, xây dựng, v.v. Trong khi đó, đội tình nguyện trí thức trẻ thường có thành viên sở hữu nhiều kiến thức chuyên môn với sức tập trung cao, tinh thần sáng tạo và sự công nghệ hóa cao, nhưng đôi khi thiếu kinh nghiệm về thực tế và phản hồi từ cộng đồng.

Hiệu quả hoạt động tình nguyện giữa 2 đội hình tình nguyện truyền thống và tình nguyện tri thức trẻ đối với cộng đồng tiếp nhận:

– Đội hình tình nguyện truyền thống thường được hình thành dựa trên nhu cầu của cộng đồng trong địa phương và được tập trung vào các hoạt động vì lợi ích cộng đồng như xây dựng nhà cửa, sửa chữa đường phố, hoặc tạo ra những hoạt động vui chơi trong khu vực. Thế nên, đội ngũ tình nguyện viên trong đội hình truyền thống thường gần gũi trong cộng đồng, và tinh thần tình nguyện của họ rất cao, đó là sự nỗ lực của mỗi cá nhân để giúp đỡ và phát triển cộng đồng của mình.

– Đội hình tình nguyện tri thức trẻ, mô hình này mang tính khởi nghiệp, được phát triển từ các cơ sở giáo dục hoặc tổ chức, gồm các thành viên trẻ tuổi hơn, các nhà khoa học trẻ và với công nghệ thông tin mạnh mẽ hơn. Họ có thể tập trung vào các hoạt động tình nguyện trong lĩnh vực giáo dục, truyền thông hoặc phát triển kinh tế. Đây là một hình thức tình nguyện tri thức được đánh giá là hiệu quả hơn vì có thể áp dụng công nghệ hiện đại và quản lý hoạt động tình nguyện tốt hơn.

Trong việc đánh giá hiệu quả, đội hình tình nguyện truyền thống thường được đánh giá cao về sự kiên nhẫn, kinh nghiệm và khả năng thích nghi với các vấn đề khó khăn trong quá trình thực hiện hoạt động. Tuy nhiên, đội hình tình nguyện tri thức trẻ thường đem lại các nhận thức mới, các kỹ năng mới và sự tươi trẻ, sáng tạo trong giải quyết các vấn đề phát sinh. Đặc biệt, những đội hình tình nguyện tri thức trẻ có thể áp dụng các công nghệ mới và các phương pháp tiếp cận cộng đồng hiện đại hơn, mang đến hiệu quả cao hơn trong việc giải quyết các vấn đề.

Tóm lại, cả 2 đội hình tình nguyện đều có ưu điểm và hạn chế riêng. Đội tình nguyện truyền thống và đội tình nguyện trí thức trẻ đều đóng góp cho cộng đồng nông thôn theo những khả năng và mục đích của mình, và từ đó đều cần được đánh giá về hiệu quả của công việc, sự đóng góp và tác động tích cực của họ đến cộng đồng nông thôn.

  • Đánh giá ưu – nhược điểm của đội hình trí thức trẻ tình nguyện

Từ kết quả thực hiện thực tiễn và nhìn nhận chung về mô hình tác giả rút ra 07 ưu điểm sau đây:

– Sự sáng tạo: Thanh niên trẻ thường có sáng tạo và đam mê thử nghiệm, điều này giúp đội tình nguyện trí thức trẻ có nhiều giải pháp đột phá và sáng tạo hơn trong việc giải quyết các vấn đề của cộng đồng nông thôn.

– Công nghệ hóa: Thanh niên trẻ hiện nay đều được học tập về công nghệ, từ đó có thể ứng dụng các giải pháp công nghệ vào việc giải quyết các vấn đề của cộng đồng nông thôn và đạt được hiệu quả cao hơn.

– Khả năng thích nghi: Thanh niên trẻ có khả năng thích nghi tốt hơn với những thay đổi, điều này giúp đội tình nguyện trí thức trẻ có thể thích nghi tốt hơn với các trường hợp, tình huống khác nhau để đạt được mục tiêu của mình.

– Tác động tích cực đến cộng đồng: Các đội tình nguyện trí thức trẻ có thể giúp cộng đồng nông thôn giải quyết các vấn đề thực tế hiệu quả hơn, từ đó tăng cường năng suất lao động và phát triển bền vững của khu vực.

– Truyền cảm hứng cho cộng đồng: Thanh niên trẻ trong đội tình nguyện trí thức có thể truyền cảm hứng cho cộng đồng nông thôn bằng việc thể hiện tinh thần trách nhiệm và lòng nhiệt huyết trong những hoạt động tình nguyện.

– Đa dạng kỹ năng: Đội tình nguyện trí thức có thể có các thành viên với các chuyên môn và kỹ năng khác nhau, từ đó có thể đáp ứng nhiều nhu cầu cụ thể của cộng đồng nông thôn.

– Tạo mối quan hệ tích cực: Thành viên trong đội tình nguyện trí thức trẻ có thể tạo mối quan hệ tích cực với cộng đồng nông thôn, giúp xây dựng niềm tin và sự hợp tác trong việc giải quyết các vấn đề của khu vực.

Và 06 nhược điểm:

– Kinh nghiệm còn hạn chế: Thành viên trong đội tình nguyện trí thức trẻ thường còn đang bắt đầu tìm hiểu và trải nghiệm với nhiều vấn đề thực tiễn, điều này khiến cho họ thiếu kinh nghiệm và khả năng áp dụng các giải pháp thực tế.

– Tái mô hình: Làm thế nào để phân bổ các thành viên thành công nhóm hoạt động để đạt được sự hiệu quả cao và không bị tái mô hình hàng ngày là một trong những thách thức mà đội tình nguyện trí thức trẻ gặp phải.

– Thiếu tài trợ: Các đội tình nguyện trí thức trẻ thường thiếu tài trợ để triển khai các hoạt động và giải pháp mới, hạn chế khả năng của họ trong việc thực hiện các hoạt động giúp cộng đồng.

– Thời gian thực hiện hạn chế: Các thanh niên trẻ trong đội tình nguyện trí thức có thể bị hạn chế về thời gian do phải đồng thời học tập và làm việc.

– Thiếu sự ủng hộ của cộng đồng: Khi cộng đồng không hoàn toàn hiểu và ủng hộ hoạt động của đội tình nguyện trí thức, đội tình nguyện có thể gặp khó khăn trong việc giải quyết các vấn đề của khu vực.

– Vấn đề phát triển đội nhóm: Đội tình nguyện trí thức trẻ có thể gặp khó khăn trong việc phát triển đội nhóm do sự chênh lệnh giữa trình độ và kinh nghiệm của các thành viên trong đội.

Tóm lại, đội tình nguyện trí thức trẻ có nhiều ưu điểm như sự sáng tạo, khả năng áp dụng công nghệ và tác động tích cực đến cộng đồng, nhưng cũng có nhược điểm nhất định như thiếu kinh nghiệm và khả năng áp dụng giải pháp thực tế. Đội hình cần nỗ lực để tận dụng các ưu thế và khắc phục những hạn chế này để đạt được hiệu quả cao nhất trong công việc tình nguyện của mình.

  1. Bài học kinh nghiệm và kiến nghị giải pháp

4.1. Bài học kinh nghiệm

Về đội tình nguyện tri thức trẻ, đây là một loại đội tình nguyện mới tại Việt Nam, được thành lập nhằm khai thác tối đa tiềm năng tri thức của các thanh niên trẻ. Về mặt tính năng lực, đội tình nguyện trí thức trẻ thường có đội hình vừa mới thành lập, chưa có khả năng và kinh nghiệm thực tế như các đội tình nguyện truyền thống. Tuy nhiên, với sự nhiệt tình, đam mê, tinh thần sáng tạo và sự công nghệ hóa cao, các đội tình nguyện trí thức trẻ trở thành một nguồn lực quan trọng cho cộng đồng, đặc biệt là trong lĩnh vực tư vấn, đào tạo kỹ năng chuyên môn, giúp tăng cường năng lực sống và phát triển bền vững cho cộng đồng nông thôn.

Từ những ưu điểm và nhược điểm của đội tình nguyện tri thức trẻ, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm để thực hiện tốt công tác tình nguyện chuyển đổi số như sau:

– Tận dụng sự sáng tạo của thanh niên trẻ: Sự sáng tạo của thanh niên trẻ là tài sản quý giá, có thể giúp tạo ra những giải pháp mới cho các vấn đề của cộng đồng. Do đó, cần tận dụng sự sáng tạo của thanh niên trong các hoạt động tình nguyện.

– Định hướng rõ ràng cho hoạt động: Đội tình nguyện trí thức trẻ cần đặt mục tiêu và định hướng rõ ràng cho hoạt động, để đảm bảo các hoạt động của đội đạt được hiệu quả cao nhất.

– Xây dựng chiến lược dài hơi: Để giải quyết các vấn đề của cộng đồng một cách bền vững, đội tình nguyện trí thức trẻ cần thiết lập các chiến lược dài hơi, không chỉ giải quyết các vấn đề hiện tại, mà còn xây dựng cho tương lai.

– Hợp tác với các cơ quan địa phương: Đội tình nguyện trí thức trẻ nên hợp tác với các cơ quan địa phương để đạt được mục tiêu của mình, tạo sự đồng thuận trong việc giải quyết các vấn đề của khu vực.

– Điều chỉnh và cải tiến hoạt động: Cần điều chỉnh và cải tiến hoạt động của đội tình nguyện trí thức theo thời gian, để đảm bảo sự phù hợp với tình hình thực tế và đạt được thành quả tốt nhất.

– Tăng cường kết nối và chia sẻ kinh nghiệm: Đội tình nguyện trí thức trẻ nên tăng cường kết nối và chia sẻ kinh nghiệm với các tình nguyện viên khác, để học hỏi và cải thiện hoạt động của mình. Các thành viên đến từ các ngành học khác nhau, điều này là cơ hội để phát triển các kỹ năng cho các thành viên của đội.

– Tạo mối quan hệ tích cực với cộng đồng: Tạo mối quan hệ tích cực với cộng đồng là yếu tố quan trọng trong việc giúp đội tình nguyện trí thức trẻ đạt được kết quả tốt hơn và thúc đẩy sự phát triển bền vững của khu vực.

– Tìm nguồn hỗ trợ: Đội tình nguyện trí thức trẻ cần tìm kiếm nguồn hỗ trợ, tài trợ để có thể triển khai các hoạt động tình nguyện và giải quyết các vấn đề trên thực tế.

Tóm lại, các bài học kinh nghiệm từ đội tình nguyện trí thức trẻ bao gồm tận dụng sự sáng tạo của thanh niên trẻ, phát triển kỹ năng cho các thành viên, tạo mối quan hệ tích cực với cộng đồng, xây dựng chiến lược dài hơi và tìm nguồn hỗ trợ. Các bài học này có thể giúp đội tình nguyện trí thức trẻ đạt được hiệu quả tốt hơn trong các hoạt động tình nguyện của mình và mang lại lợi ích về lâu dài cho cộng đồng.

4.2. Đề xuất, gợi mở

  • Gợi mở một số ý tưởng để gắn kết tri thức trẻ trong chuyển đổi số để xây dựng “Làng quê đáng sống”, xây dựng địa phương

Thứ nhất, tạo cơ hội cho các bạn trẻ tham gia vào các hoạt động tình nguyện trong cộng đồng, từ quét dọn đường phố đến xây dựng nhà ở cho người nghèo.

Thứ hai, khai thác tiềm năng của các nền tảng trực tuyến và xây dựng các cộng đồng mạng xã hội nhằm chia sẻ thông tin về các hoạt động tình nguyện, tạo ra sự kết nối giữa các bạn trẻ từ khắp mọi nơi trên thế giới. Xây dựng các cộng đồng và mạng lưới kết nối trí thức trẻ trong lĩnh vực công nghệ, tạo điều kiện cho trí thức trẻ của Việt Nam để chia sẻ kiến thức, tài nguyên và trải nghiệm.

Thứ ba, phát triển các ứng dụng công nghệ thông tin để giúp cộng đồng trong xây dựng và quản lý các dự án tình nguyện, tạo sự đồng thuận và sự thân thiện với sự tham gia của các bạn trẻ.

Thứ tư, hỗ trợ và đưa ra các chương trình giáo dục và đào tạo miễn phí, tăng cường kiến thức cho các bạn trẻ về quản lý tài chính, kỹ năng giao tiếp và khởi nghiệp trong môi trường kinh doanh.

Thứ năm, tham gia các hoạt động cộng đồng trong làng quê, từ các chương trình xây dựng hạ tầng đến các dự án tạo việc làm cho người dân địa phương.

Thứ sáu, tạo ra các cơ hội để các bạn trẻ giao lưu và chia sẻ kinh nghiệm với nhau, đồng thời cập nhật các thông tin mới nhất về phát triển kinh tế và xã hội của làng quê.

Thứ bảy, tăng cường khả năng quản lý, tổ chức và triển khai các hoạt động tình nguyện của trí thức trẻ bằng cách hỗ trợ đào tạo các kỹ năng cần thiết như kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp và kỹ năng thuyết trình.

Thứ tám, hỗ trợ tài chính cho các hoạt động tình nguyện của trí thức trẻ, đặc biệt là các hoạt động liên quan đến công nghệ và chuyển đổi số, bằng cách tạo ra các quỹ hỗ trợ tình nguyện viên và khuyến khích các tổ chức tài trợ tham gia tài trợ cho các hoạt động tình nguyện này.

Thứ chín, đối với sinh viên, có thể tạo ra các chương trình thực tập và học thực tế liên quan đến các hoạt động tình nguyện, giúp sinh viên trải nghiệm các hoạt động tình nguyện thực tế và định hướng sự nghiệp tương lai của mình.

Cuối cùng, để gắn kết tri thức trẻ trong chuyển đổi số để xây dựng “Làng quê đáng sống”, xây dựng địa phương cần có tinh thần đồng đội, sự tin tưởng và sự kết nối giữa các bạn trẻ. Chỉ khi chúng ta cùng nhau hợp tác và tận dụng lợi thế của mình, làng quê mới có thể phát triển một cách bền vững và tiến bộ trong tương lai.

4.3. Giải pháp thực hiện

  • Để có thể áp dụng các hoạt động tình nguyện, trong đó có hoạt động tình nguyện của trí thức trẻ tốt nhất trong điều kiện chuyển đổi số, chúng ta có thể thực hiện:

Thứ nhất, cần có sự định hướng, tạo điều kiện thuận lợi từ các cấp cơ sở Đoàn, Hội trong các hoạt động tình nguyện. Luôn tiên phong, đi đầu và khẳng định vai trò đoàn kết tập hợp thanh niên, có kế hoạch, chính sách hỗ trợ trí thức trẻ trong tình nguyện.

Thứ hai, xây dựng môi trường tình nguyện thân thiện: Có thể sử dụng các nền tảng trực tuyến để kết nối và tạo môi trường để các tình nguyện viên tìm kiếm dự án và nhóm tình nguyện để tham gia. Bên cạnh đó, cần đóng vai trò trung gian giữa các đơn vị tình nguyện và những người có nhu cầu. Ví dụ điển hình ở TP. Hồ Chí Minh thì có cộng động tình nguyện GO VOLUNTEER trên mạng xã hội Facebook.

Thứ ba, khuyến khích sự tham gia của thanh niên và học sinh, sinh viên: Thanh niên và học sinh sinh viên là những người thích hoạt động tình nguyện. Do đó, cần tạo điều kiện để họ tham gia hoạt động giúp đỡ cộng đồng của mình.

Thứ tư, phát triển các hoạt động tình nguyện trong các lĩnh vực có liên quan đến khoa học và công nghệ: Đóng góp làm giàu kiến thức khoa học, nghiên cứu công nghệ nhằm đáp ứng với sự phát triển công nghiệp 4.0 đang diễn ra. Gắn với đó có thể tổ chức các sự kiện trực tuyến như các cuộc thi khoa học trực tuyến, các hội thảo khoa học trực tuyến, chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm với các bạn trẻ.

Thứ năm, tìm kiếm thông tin và hỗ trợ tài chính từ các tổ chức, công ty, quỹ tài trợ để phát triển hoạt động tình nguyện hiệu quả.

Thứ sáu, xây dựng và bảo vệ những hành động tình nguyện trên mạng xã hội, tạo niềm tin và mục tiêu cho tình nguyện viên. Thực hiện các dự án về khoa học và công nghệ thông qua các nền tảng trực tuyến, truyền hình mạng, video, hình ảnh, cung cấp thông tin về các dự án đang được thực hiện và kết quả đạt được.

Thứ bảy, tăng cường hoạt động phổ biến thông tin, quảng bá cho công chúng về các hoạt động tình nguyện. Tạo ra các nội dung số như video và trình chiếu ảnh để chia sẻ những câu chuyện thành công của các dự án đã thực hiện của đội tình nguyện.

Thứ tám, tạo ra các ứng dụng di động trên các nền tảng khác nhau để giúp đội tình nguyện và các bạn trẻ tiếp cận kiến thức khoa học và công nghệ một cách dễ dàng.

*Để chuyển đổi số, thanh niên Việt Nam, trí thức trẻ cần làm những việc sau:

Thứ nhất, học hỏi và trang bị kiến thức về công nghệ thông tin: Thanh niên, trí thức trẻ cần đầu tư thời gian để khám phá và học hỏi về công nghệ thông tin, lập trình, phát triển ứng dụng web và di động và các công nghệ mới nhất khác.

Thứ hai, tìm hiểu và áp dụng các công nghệ mới: Cần có niềm đam mê khám phá những ứng dụng công nghệ mới nhằm áp dụng chúng vào cuộc sống và công việc, giúp tiết kiệm thời gian, tăng hiệu quả và tạo ra giá trị mới.

Thứ ba, phát triển kỹ năng kỹ thuật số: Có thể tìm kiếm các khóa học kỹ năng số trên mạng như hướng dẫn sử dụng phần mềm văn phòng, thiết kế đồ hoạ, quản lý dữ liệu, marketing trực tuyến,…

Thứ tư, sử dụng các ứng dụng di động: Thanh niên, trí thức trẻ có thể sử dụng các ứng dụng như Google Map, Grab, Foodpanda, bài giảng trực tuyến, theo dõi thông tin tin tức v.v. để giúp tiết kiệm thời gian và tối đa hóa hiệu quả.

Thứ năm, tham gia vào các dự án công nghệ: Có thể tham gia vào các dự án công nghệ với các doanh nghiệp, các nhóm nghiên cứu để cung cấp các giải pháp mới cho thị trường và góp phần tạo ra quảng đường phát triển mới cho đất nước.

Thứ sáu, xây dựng, phát triển và sử dụng các sản phẩm công nghệ tiên tiến: Thanh niên, trí thức trẻ có thể sử dụng các sản phẩm công nghệ như các thiết bị IoT, xe tự hành và các sản phẩm khác để giúp tiết kiệm thời gian, tối ưu hoá công việc và đảm bảo an toàn trong cuộc sống hàng ngày.

Việc thanh niên, trí thức trẻ thực hiện những việc trên sẽ giúp tạo động lực để đóng góp cho sự phát triển của đất nước và mang lại lợi ích cho bản thân cũng như cộng đồng.

4.4. Kiến nghị

Kiến nghị 1: Chính sách đào tạo kỹ năng số, đào tạo thường xuyên. Giáo dục là lĩnh vực được ưu tiên chuyển đổi số để đào tạo nguồn nhân lực cho tương lai. Đồng thời, thanh niên, trí thức trẻ cũng chính là đối tượng tham gia và thụ hưởng từ các chính sách về giáo dục. Do đó, để thúc đẩy chuyển đổi số trong hoạt động tình nguyện của thanh niên, trí thức trẻ cần tập trung vào lĩnh vực giá dục, đào tạo về kỹ năng số.

Kiến nghị 2: Phát động phong trào chuyển đổi số trong hoạt động tình nguyện của thanh niên, trí thức trẻ. Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị đại diện chăm lo và bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của tuổi trẻ, Đoàn Thanh niên các cấp có vai trò rất quan trọng trong việc hỗ trợ thanh niên, trí thức trẻ nâng cao năng lực chuyển đổi số thông qua các phong trào và công tác Đoàn để nhằm phục vụ nâng cao chất lượng hoạt động tình nguyện.

Kiến nghị 3: Xây dựng một hệ thống tài nguyên về công nghệ, chuyển đổi số cho hoạt động tình nguyện. Trung ương Đoàn nên đầu tư xây dựng các tài nguyên công nghệ, công cụ và giải pháp, và chia sẻ tài nguyên này nhiều hơn để giúp các đội hình tình nguyện trong đó bao gồm các thành viên đến từ các ngành nghề và lĩnh vực khác nhau có khả năng tiếp cận và phát triển các sản phẩm và giải pháp tốt hơn.

Kiến nghị 4: Thử nghiệm các chính sách. Quá trình luận hóa các chính sách để tạo điều kiện cho thanh niên chuyển đổi số còn nhiều khó khăn về tốn nhiều thời gian, chi phí và rào cản pháp lý, trong khi đó chuyển đổi số đòi hỏi nguồn tài chính dồi dào để bắt kịp xu hướng công nghệ toàn cầu và cung cấp kịp thời. Do đó, các chiến lược chuyển đổi số đột phá cho thanh niên trí thức nhất là trong hoạt động tình nguyện sẽ cần được thử nghiệm rộng rãi trong những năm tới để tìm ra những mô hình phù hợp, sáng tạo và hiệu quả cao. Hơn nữa, toàn bộ hệ thống chính trị phải thể hiện sự quyết tâm trong quá trình chuyển đổi số và nâng cao kỹ năng số. Các phong trào, hoạt động tình nguyện thúc đẩy chuyển đổi số của thanh niên cần thiết thực, tránh chạy theo kiểu “phong trào” hay “báo cáo”, đặc biệt phải sử dụng các sáng kiến ​​khuyến khích quá trình chuyển đổi số nhưng phải huy động được sự tham gia của người dân, doanh nghiệp, tổ chức của các tổ chức khác, trí tuệ và tài chính từ con người.

  1. Kết luận

Đội Trí thức Trẻ TP. Hồ Chí Minh đã thành công trong việc áp dụng chuyển đổi số để giải quyết một số vấn đề đang gặp phải tại cộng đồng nông thôn. Nhờ sự kết hợp giữa ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số và hoạt động tình nguyện, đội trí thức trẻ đã giúp cộng đồng trong việc cải thiện môi trường, nâng cao sản xuất nông nghiệp và đảm bảo an toàn cho người dân.

Với kinh nghiệm và bài học rút ra từ thực tiễn trên, việc áp dụng chuyển đổi số để xây dựng các “Làng quê đáng sống” sẽ trở nên dễ dàng hơn. Các giải pháp mới để tăng năng suất, tăng cường quản lý nguồn lực, hay cải thiện môi trường đều có thể được triển khai nếu có sự ứng dụng công nghệ thông tin ở trong đó.

Trong tương lai, kết hợp giữa công nghệ số và tình nguyện, đặc biệt là các hoạt động của đội trí thức trẻ, sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp xây dựng các “Làng quê đáng sống”, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân và bảo đảm sự phát triển bền vững của khu vực nông thôn.

Từ đó càng khẳng định vai trò của thanh niên Việt Nam, trí thức trẻ phải đi đầu trong công cuộc chuyển đổi số này, ứng dụng nó vào thực tiễn để xây dựng đất nước. Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Dũng (2022), gửi gắm đến thế hệ thanh niên Việt Nam rằng có lý tưởng lớn, có sứ mệnh cao và niềm tin vào nó sẽ tạo ra sức mạnh tinh thần cho thanh niên. Ngọn cờ cao sẽ hội tụ được mọi thanh niên, đoàn kết được 22 triệu thanh niên Việt Nam và sức mạnh này sẽ là vô địch. Thanh niên Vệt Nam hãy cầm ngọn cờ chuyển đổi số Việt Nam biến Việt Nam thành quốc gia số thịnh vượng. Ngọn cờ này đủ lớn, đủ cao để hội tụ thanh niên. Ngọn cờ này đủ khát vọng để thanh niên sẵn sàng đi đầu, dấn thân, hi sinh. Đất nước đã gọi tên thanh niên trong sự nghiệp giành độc lập, chống ngoại xâm, thống nhất và giữ gìn sự trọn vẹn của đất nước, thì nay đất nước gọi tên thanh niên trong sự nghiệp chấn hưng đất nước.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Chính phủ (2021). Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2021- 2030.
  2. Bộ Thông tin và Truyền thông (2020). Cẩm nang chuyển đổi số. NXB Bộ thông tin và Truyền thông.
  3. Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (2022). Đề án Nâng cao năng lực số cho thanh thiếu niên Việt Nam giai đoạn 2022-2030.
  4. Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (2022). Kế hoạch Tổ chức Mạng lưới Trí thức trẻ tham gia xây dựng nông thôn mới và thành lập 10 Đội hình Trí thức trẻ chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho thanh niên, người dân trong Chiến dịch thanh niên tình nguyện hè năm 2022.

 

[Lời Ban Biên tập Website]:

Bài viết là toàn văn tham luận số 04 của tác giả NGUYỄN TẤN THÀNH thuộc đơn vị Trường Đại học Giao thông vận tải TP. Hồ Chí Minh trong khuôn khổ Hội thảo Khoa học trẻ Việt Nam toàn cầu lần thứ II “Thanh niên trong bối cảnh chuyển đổi số” do Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam tổ chức vào ngày 20/9/2023 tại Thủ đô Hà Nội.

Có thể tham khảo tại: Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam. (2024). Kỷ yếu Hội thảo Khoa học trẻ Việt Nam toàn cầu lần thứ II “Thanh niên trong bối cảnh chuyển đổi số”. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.211-214.

HAI MẶT CỦA CÁC ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG NGHỆ SỐ ĐỐI VỚI THANH NIÊN VIỆT NAM: TIỀM NĂNG NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC NỖ LỰC THEO ĐUỔI NHỮNG GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG VÀ NHÂN VĂN

Tóm tắt: Công nghệ số đã trở thành một phần không thể thiếu trong hầu hết các khía cạnh của cuộc sống của chúng ta, đặc biệt đối với thanh niên tại Việt Nam, công nghệ số mang lại cơ hội và đồng thời cũng gây ra những thách thức cho thanh niên. Với tiềm năng của nó trong việc cải thiện giáo dục và kết quả giáo dục, công nghệ số có thể giúp nâng cao trình độ và kỹ năng của thanh niên Việt Nam. Tuy nhiên, sự bùng nổ của công nghệ số cũng đã tạo ra những thách thức mới. Thanh niên Việt Nam đang phải đối mặt với những rủi ro phức tạp liên quan đến thế giới kỹ thuật số, bao gồm các mối đe dọa về an ninh mạng, tin tặc, bạo lực trực tuyến, nghiện game và nội dung trái phép. Mặc dù có những thách thức, nhưng trong tương lai, công nghệ số vẫn có nhiều tiềm năng để trở thành một yếu tố tích cực tại Việt Nam. Một cơ hội quan trọng cho thanh niên là khả năng tận dụng công nghệ số để bảo tồn giá trị và văn hóa truyền thống của Việt Nam. Thông qua việc phát triển ứng dụng kết nối giữa công nghệ số và giá trị văn hóa, thanh niên có thể giúp đẩy mạnh việc bảo tồn và phát triển các giá trị truyền thống trong xã hội hiện đại. Tuy nhiên, để đảm bảo việc sử dụng công nghệ số hợp lý, cần có những hướng dẫn và quy định phù hợp, cũng như việc giáo dục thanh niên để nâng cao nhận thức và trách nhiệm với việc sử dụng công nghệ số. Bài nghiên cứu sẽ đi sâu phân tích các tiềm năng và thách thức của công nghệ số đối với nỗ lực theo đuổi những giá trị truyền thống và nhân văn của thanh niên Việt Nam. Nghiên cứu cũng đưa ra những hướng phát triển và đề xuất về tương lai của biện pháp cân bằng giữa sự phát triển của công nghệ số và sự giữ gìn giá trị truyền thống và nhân văn của đất nước Việt Nam.

Từ khóa: Công nghệ số, thanh niên, thanh niên Việt Nam, giá trị truyền thống, nhân văn

Abstract: Digital technology has become an essential part of almost every aspect of our lives, especially for young people in Vietnam. Digital technology provides opportunities as well as challenges for Vietnamese youth. With its potential to improve education and academic outcomes, digital technology can help enhance the skills and knowledge of Vietnamese youth. However, the explosion of digital technology has also created new challenges. Vietnamese youth are facing complex risks related to the digital world, including cyber threats, hackers, online violence, gaming addiction, and illegal content. Despite such challenges, there is still considerable potential for digital technology to become a positive factor in Vietnam’s future. An important opportunity for youth is the ability to utilize digital technology to preserve and promote the values and traditions of Vietnam. By developing applications that connect digital technology with cultural values, youth can help enhance the preservation and development of traditional values in modern society. However, to ensure appropriate use of digital technology, appropriate guidelines and regulations are needed, as well as education for youth to raise awareness and responsibility in digital technology use. The research will delve deeper into the potential and challenges of digital technology in pursuing the cultural and humanistic values of Vietnamese youth. The study will also propose future development directions and a balance between digital technology development and the preservation of traditional values and humanity in Vietnam.

Key words: Digital technology, youth, vietnamese youth, traditional values, humanitarianism.

 

  1. Đặt vấn đề

Công nghệ số đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống của thanh niên Việt Nam. Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số, thanh niên Việt Nam có khả năng tiếp cận với những nền tảng số phức tạp và tiên tiến hơn bao giờ hết. Một mặt, công nghệ số mang lại tiềm năng nâng cao trình độ và tầm quan trọng của việc nỗ lực theo đuổi những giá trị truyền thống và nhân văn. Có nhiều trang thiết bị và ứng dụng công nghệ số được sử dụng trong giáo dục, giúp thanh niên Việt Nam truy cập vào các nguồn tài nguyên giáo dục trên toàn cầu, nâng cao trình độ học vấn và phát triển kỹ năng một cách toàn diện. Công nghệ số đã đem lại nhiều tiện ích, giúp thanh niên Việt Nam tiếp cận, cập nhật thông tin một cách nhanh chóng và thuận tiện hơn. Một số trang web, trò chơi, ứng dụng và nền tảng trực tuyến cũng giúp thanh niên Việt Nam tiếp cận với tin tức, kiến thức và cơ hội mới, đồng thời giúp tăng cường khả năng kết nối và giao tiếp với những người khác trên toàn thế giới tạo ra nhiều cơ hội mới cho cuộc sống của mình không chỉ trong lĩnh vực học tập và nghề nghiệp, mà còn trong lĩnh vực sáng tạo, khởi nghiệp. Điều này giúp thanh niên Việt Nam phát triển mối quan hệ xã hội, tăng cường sự đa dạng văn hoá và lĩnh hội những giá trị nhân văn và truyền thống. Từ công nghệ số thanh niên Việt Nam có thể cập nhật nhanh chóng và chuẩn bị tốt hơn cho tương lai của mình.

Tuy nhiên, trên một mặt khác, những tiềm năng mà công nghệ số mang lại cũng đi kèm với những thách thức. Các vấn đề bảo mật thông tin và an ninh mạng trở thành mối quan tâm hàng đầu khi sử dụng công nghệ số. Việc chịu ảnh hưởng tiêu cực từ mạng xã hội hoặc game online gây ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe tâm lý và thể chất. Việc sử dụng thông tin sai lệch, dẫn đến hiểu nhầm và những hậu quả khôn lường ám ảnh nhiều phụ huynh chỉ ra rủi ro cho sức khỏe tâm lý và tầm nhìn của thanh niên. Nếu không có kỹ năng và ý thức sử dụng đúng đắn các nền tảng công nghệ số, thanh niên Việt Nam có thể dễ dàng rơi vào những hiểm họa tiềm tàng.

Công nghệ số là một lực lượng to lớn trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, mang lại nhiều giá trị gia tăng, cải tiến và tiện ích cho cuộc sống của con người. Tuy nhiên, cũng có những tác động tiêu cực của công nghệ số đến xã hội và cá nhân. Do đó, khái niệm “Hai mặt của các ảnh hưởng của công nghệ số” được sử dụng để diễn tả ý nghĩa đó. Và có thể hiểu theo cách đơn giản là diễn tả sự tương phản giữa những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của công nghệ số đến cuộc sống của con người và xã hội.

Tầm quan trọng của công nghệ số trong cuộc sống của thanh niên Việt Nam là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, để sử dụng công nghệ số một cách hiệu quả và bền vững, thanh niên Việt Nam cần có kiến thức và kỹ năng thiết yếu, cũng như ý thức đúng đắn về việc sử dụng công nghệ số một cách có trách nhiệm, đưa ra các giải pháp và hướng tiếp cận một cách hợp lý. Đồng thời, việc duy trì và phát triển các giá trị truyền thống và nhân văn là vô cùng quan trọng để giúp thanh niên Việt Nam có khả năng thích ứng và phát triển trong môi trường công nghệ số tiên tiến.

Mục đích của vấn đề này là nghiên cứu về hai mặt của các ảnh hưởng của công nghệ số đối với thanh niên Việt Nam: tiềm năng nâng cao trình độ và tầm quan trọng của việc nỗ lực theo đuổi những giá trị truyền thống và nhân văn, cũng như thách thức mới mà công nghệ số đem lại. Sẽ tập trung vào việc khảo sát tác động của công nghệ số đối với thanh niên Việt Nam, đặc biệt là tác động đối với trình độ và giá trị truyền thống của thanh niên Việt Nam. Đối tượng nghiên cứu bao gồm thanh niên là cốt lỗi, các chuyên gia và nhà nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ, xã hội và giáo dục, cũng như chính phủ và các tổ chức phi chính phủ quan tâm đến việc đảm bảo sự phát triển bền vững cho thanh niên Việt Nam trong thời đại số. Nghiên cứu này sẽ cho phép đánh giá được ảnh hưởng của công nghệ số đối với thanh niên Việt Nam và cung cấp thông tin về những kỹ năng và giá trị nào được thể hiện và cần được thúc đẩy trong quá trình sử dụng công nghệ số. Đồng thời, nghiên cứu này cũng đề xuất các giải pháp và hướng tiếp cận hợp lý để giúp thanh niên Việt Nam sử dụng công nghệ số một cách hiệu quả và có trách nhiệm, đồng thời giữ gìn và phát triển các giá trị truyền thống và nhân văn của đất nước.

  1. Tiềm năng của công nghệ số đối với nâng cao trình độ của thanh niên Việt Nam

Tiềm năng của công nghệ số trong việc nâng cao trình độ của thanh niên Việt Nam là một chủ đề được quan tâm đến. Công nghệ số được xem là một công cụ hữu ích giúp thanh niên Việt Nam có cơ hội tiếp cận các tài nguyên giáo dục, nâng cao trình độ và phát triển kỹ năng số cũng như phát triển kỹ năng khác một cách toàn diện. Dưới đây là một vài đặc điểm của tiềm năng của công nghệ số đối với nâng cao trình độ của thanh niên Việt Nam:

Một là, tiếp cận các tài nguyên giáo dục trực tuyến. Thanh niên Việt Nam có thể truy cập vào nguồn tài liệu học liệu trực tuyến nhanh chóng và dễ dàng. Hiện tại, có hơn 1 triệu trang web giáo dục và hơn 20.000 ứng dụng học tập trên thiết bị di động được phát triển trên toàn cầu. Trong đó, có rất nhiều trang web giáo dục và ứng dụng di động được chuyên biệt hóa cho người Việt Nam, cung cấp thông tin, tài liệu học liệu trực tuyến với nhiều chủ đề từ cơ bản đến chuyên sâu. Các nền tảng trực tuyến và phần mềm giáo dục như Coursera, Khan Academy, edX, Class Central,.. cung cấp nhiều khoá học miễn phí và được cập nhật thường xuyên giúp cho thanh niên Việt Nam có thể tiếp cận nhiều kiến thức mới. Các hình thức học tập trực tuyến không yêu cầu điều kiện đặc biệt nào trừ việc có một thiết bị kết nối Internet, do đó, đối tượng được hưởng lợi là thanh niên Việt Nam với đủ độ tuổi cũng như điều kiện học tập và làm việc.

Tên nền giáo dục trực tuyến Số lượng khóa học
edX Hơn 1.300
Coursera Hơn 4.000
Khan Academy Hơn 10.000
Udemy Hơn 150.000

Bảng 1: Số lượng khóa học trên các nền tảng giáo dục trực tuyến năm 2023

(Nguồn: Tác giả tổng hợp – năm 2023)

Hai là, tăng cường khả năng học tập độc lập. Công nghệ số cho phép học viên tự điều chỉnh tốc độ học tập của mình. Những người có nhu cầu học tập nhanh và hiệu quả có thể tập trung vào các chủ đề cụ thể và dùng các hướng dẫn dễ hiểu. Những người học chậm hơn có thể lặp lại nội dung học nhiều lần và rèn luyện những kỹ năng cần thiết. Cơ hội học tập từ xa từ đó cũng được phát triển. Các trường đại học và cao đẳng Việt Nam hiện nay cũng đã sử dụng công nghệ số để đưa các lớp học trực tuyến, điều này giúp cho các sinh viên có thể học tập mà không cần phải đến trường. Số liệu thống kê từ nghiên cứu cho thấy 68% học viên trực tuyến cho biết việc học trực tuyến giúp họ học tập một cách độc lập và tự tin hơn. Hơn nữa, nghiên cứu cũng cho thấy rằng việc học tập trực tuyến giúp học viên giảm thiểu tình trạng bỏ dở trong quá trình học tập.

Tỷ lệ thanh niên sử dụng Internet và điện thoại thông minh để học tập Tỷ lệ
Sử dụng điện thoại thông minh để học tập 70.4%
Sử dụng Internet để tìm kiếm thông tin cho việc học tập và nghiên cứu 84.9%
Sử dụng các ứng dụng học tập trực tuyến 62.6%
Sử dụng Internet để xem video giảng dạy và học online 57.8%

Bảng 2: Tỷ lệ thanh niên sử dụng Internet và điện thoại thông minh để học tập

(Nguồn: Tác giả tổng hợp – năm 2023)

Ba là, phát triển kỹ năng tương tác xã hội. Công nghệ số giúp thanh niên Việt Nam có thể tương tác với những người khác một cách dễ dàng, học hỏi từ người khác và tạo mối quan hệ xã hội. Nó giúp tăng cường khả năng giao tiếp và tư duy phản biện. Nghiên cứu cho thấy 77% của số lượng người sử dụng mạng xã hội là nhóm tuổi từ 18-34. Các nền tảng này như Facebook, Instagram và TikTok giúp thanh niên Việt Nam có cơ hội tương tác với người khác một cách dễ dàng.

Kênh kết nối xã hội Số lượng người dùng Việt Nam (triệu người)
Facebook 66.2
Youtube 63
Tiktok 50.6
Instagram 13
Twitter 6
Linkedln 5.2

Bảng 3: Số lượng người dùng Việt Nam sử dụng các kênh kết nối xã hội

(Nguồn: Tác giả tổng hợp – năm 2023)

Bốn là, giúp phát triển năng lực kỹ thuật số. Những thanh niên Việt Nam trải qua quá trình học tập và rèn luyện kỹ thuật số có thể phát triển kỹ năng và năng lực kỹ thuật số, đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động hiện nay. Theo ước tính của Tổ chức Kinh tế Hợp tác và Phát triển (OECD), số lượng người sử dụng Internet tại Việt Nam từ năm 2000 đến năm 2020 tăng từ 200.000 lên 60 triệu. Việc này đã cải thiện khả năng quản lý và sử dụng công nghệ thông tin ít nhất ở mức cơ bản, giúp thanh niên Việt Nam trở nên thông thạo hơn trong việc sử dụng máy tính và các thiết bị di động. Công nghệ số là một công cụ đắc lực để thanh niên có thể phát triển kỹ năng kỹ thuật số, bao gồm lập trình, thiết kế đồ hoạ, kỹ năng quản lý website, kỹ năng xử lý văn bản và dữ liệu.

Năm là, cung cấp cơ hội học tập và rèn luyện mới. Công nghệ số cho phép thanh niên Việt Nam truy cập vào các chương trình học tập trực tuyến miễn phí hoặc với chi phí thấp, như các khóa học trực tuyến của các trường đại học nổi tiếng, các trang web học tập và ứng dụng di động. Nó cũng giúp cung cấp các công việc mới tại các công ty công nghệ thông tin liên quan đến phát triển sản phẩm số. Theo báo cáo mới nhất của ứng dụng học trực tuyến Coursera, Việt Nam hiện là một trong những quốc gia có số lượng học viên đăng ký khóa học trực tuyến tại Coursera tăng nhanh nhất đồng thời cũng là quốc gia có nhiều người học trực tuyến nhất Đông Nam Á.

Sáu là, tạo ra cơ hội kinh doanh mới. Công nghệ số cũng cung cấp cơ hội cho thanh niên Việt Nam để sáng tạo, phát triển các ý tưởng kinh doanh mới và khởi nghiệp. Các thanh niên Việt Nam có thể tạo dựng sản phẩm và dịch vụ mới và khai thác tiềm năng của mạng Internet để tiếp cận khách hàng. Theo thống kê của Bộ Công Thương, việc khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ thông tin đang ngày càng được nhiều thanh niên Việt Nam quan tâm. Từ năm 2016 đến 2020, số lượng doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực này tăng 2,5 lần so với 5 năm trước đó.

Bảy là, tiết kiệm thời gian và chi phí. Sử dụng công nghệ số giúp tiết kiệm thời gian và chi phí di chuyển, giúp thanh niên Việt Nam thích nghi với các thay đổi nhanh chóng trong công nghệ. Việc tiết kiệm thời gian và chi phí này có thể giúp thanh niên Việt Nam tập trung vào những hoạt động khác như công việc, học tập thêm, phát triển kỹ năng và sở thích riêng của mình. Việc học trực tuyến giúp đơn giản hóa việc di chuyển đến trường học hoặc các lớp học ngoại ngữ. Một nghiên cứu của UNESCO cho biết, mỗi học sinh bình thường tại TP. Hồ Chí Minh mất khoảng 23 phút di chuyển đến trường và trở lại nhà, trong khi đó học trực tuyến giúp học sinh tiết kiệm được lượng thời gian này.

Năm học Số lượng sinh viên của hệ thống đại học hệ từ xa
2007-2008 11.579
2011-2012 65.391
2015-2016 203.542
2019-2020 269.870
2021 – 2022 360.732

Bảng 4: Số lượng sinh viên của hệ thống đại học hệ từ xa các năm

(Nguồn: Tác giả tổng hợp – năm 2023)

Tám là, khai thác tiềm năng sáng tạo. Công nghệ số cung cấp những công cụ sáng tạo mới để thanh niên Việt Nam có thể khai thác và phát triển sức sáng tạo của mình. Với các ứng dụng di động, trang web tùy chỉnh, các nền tảng video và phát sóng trực tuyến, các thanh niên Việt Nam có thể truyền tải các ý tưởng sáng tạo và sản xuất nội dung giải trí tại nhà. Hiện tại, tại cổng thông tin trực tuyến “Ngân hàng ý tưởng sáng tạo Thanh niên Việt Nam” của Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã ghi nhận 3.624.433 ý tưởng, sáng kiến của đoàn viên, thanh niên trên cả nước.

Chín là, phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững. Công nghệ số có thể giúp thanh niên Việt Nam tiếp cận những giá trị truyền thống và nhân văn của đất nước thông qua các hình thức như tài liệu số, phim, văn học số, hai hoặc ba quảng cáo, video giáo dục,.. Những hình thức này có khả năng khai thác và phát triển các giá trị truyền thống và nhân văn, truyền thông với mọi người là một cách hữu hiệu để quảng bá cho giá trị văn hóa Việt Nam.

Trên đây là những tiềm năng mà công nghệ số có thể đem lại để nâng cao trình độ cho thanh niên Việt Nam. Công nghệ số đang giúp thanh niên Việt Nam mở rộng cơ hội học tập, tăng cường khả năng phát triển kỹ năng và năng lực kỹ thuật số và giúp gia tăng khả năng tương tác xã hội một cách hiệu quả. Công nghệ số đang mở ra một thế giới mới cho thanh niên Việt Nam để tìm kiếm kiến thức và kỹ năng để phát triển tốt hơn cho tương lai.

  1. Thách thức của công nghệ số đối với việc theo đuổi những giá trị truyền thống và nhân văn của thanh niên Việt Nam

Việc phát triển công nghệ số đã tạo ra nhiều cơ hội mới cho thanh niên Việt Nam, tuy nhiên nó cũng tạo ra nhiều thách thức đối với việc theo đuổi những giá trị truyền thống và nhân văn của đất nước. Tác giả chỉ ra một số thách thức sau đây:

Một là, thiếu tinh thần trách nhiệm xã hội và giá trị đạo đức. Sự phát triển của công nghệ số có thể ảnh hưởng đến giá trị đạo đức của một số thành niên Việt Nam. Ví dụ, việc sử dụng mạng xã hội để lan truyền thông tin sai lệch trên mạng xã hội, việc chia sẻ thông tin bất lợi và viện cớ để đạt được mục đích riêng. Việc này đã làm mất niềm tin của người dùng và ảnh hưởng đến sự phát triển của các giá trị truyền thống Việt Nam. Theo một khảo sát của một công ty dịch vụ công nghệ những người dùng mạng xã hội tại Việt Nam, tới hơn 60% số người dùng trẻ tuổi đã từng giải quyết vấn đề cá nhân của mình bằng cách đưa thông tin sai lệch lên mạng xã hội. Theo khảo sát tại một số trường đại học tại Việt Nam, 41,8% sinh viên sử dụng mạng xã hội nhắn tin trong giờ học.

Hai là, phân mảnh văn hóa của xã hội. Công nghệ số có thể tạo ra phân mảnh văn hóa, khiến cho các thanh niên Việt Nam không thuộc đúng vào một truyền thống và giá trị chung mà họ có thể thấu hiểu. Việc khám phá những giá trị khác nhau và chuyển đổi giữa chúng có thể là một thách thức đối với thanh niên Việt Nam. Theo báo cáo của kênh nghiên cứu thị trường Q&Me, tới 90% người dùng Internet tại Việt Nam sử dụng Facebook, trong khi đó, lượng người dùng của các ứng dụng khác, chẳng hạn như Mocha và Zalo, chỉ chiếm tỷ lệ thấp hơn. Theo báo cáo của Viện Phát triển Giáo dục và Trí tuệ Việt, hầu hết các sinh viên đại học và cao đẳng tại Việt Nam chưa quan tâm đến những tác động tiêu cực của công nghệ số.

Ba là, hao mòn các giá trị truyền thống của Việt Nam. Sự phát triển của công nghệ số có thể ảnh hưởng đến việc bảo tồn và phát triển các giá trị truyền thống và nhân văn của Việt Nam. Với thế giới đang ngày một toàn cầu hóa, các giá trị đặc trưng của Việt Nam đang gặp nhiều áp lực để thích nghi với những thay đổi và tiến hóa của thế giới. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê Việt Nam, trong năm 2019, doanh thu của thị trường online tại Việt Nam đạt hơn 13 tỷ USD, ảnh hưởng đến các phương tiện truyền thống của Việt Nam như thị trường sách và báo chí. Các đề xuất chính trị và thay đổi pháp lý đang được quan tâm hơn đến việc bảo vệ những giá trị truyền thống của Việt Nam trong thời đại số.

Bốn là, thiếu kết nối giữa công nghệ số và giá trị truyền thống của Việt Nam. Một số thanh niên Việt Nam chưa có đủ kinh nghiệm hoặc kiến thức cần thiết để tận dụng các công nghệ số phát triển nhằm tôn vinh và duy trì các giá trị truyền thống và nhân văn của đất nước. Việc này đòi hỏi cần có sự đào tạo và khích lệ, giúp thanh niên Việt Nam trở nên cảm thông về các giá trị này và phát triển các giải pháp thích hợp để kết nối giữa công nghệ và giá trị truyền thống của Việt Nam.

Năm là, thiếu kiến thức và kỹ năng kỹ thuật. Một số thanh niên Việt Nam vẫn còn thiếu kiến thức và kỹ năng kỹ thuật, làm cho việc sử dụng công nghệ số trở nên khó khăn và gây ra hiểu lầm và thiếu giới thiệu về công nghệ số. Việc này cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của các giá trị truyền thống và nhân văn của đất nước.

Sáu là, thiếu quy định và pháp lý. Việc đang thiếu các quy định và pháp lý để bảo vệ quyền riêng tư và an toàn thông tin cá nhân trên Internet. Việc thiếu pháp lý gây nên một số vấn đề an ninh mạng và gây tác động tiêu cực đến sự phát triển của các giá trị truyền thống và nhân văn của Việt Nam. Có một khảo sát cho thấy có tới 50% số người dùng Internet tại Việt Nam chưa biết về các quy định về việc bảo vệ thông tin cá nhân của mình.

Bảy là, tán tụng vấn đề công nghệ hóa. Cùng với việc phát triển công nghệ số, có thể xảy ra hiện tượng tán tụng vấn đề công nghệ hóa. Điều này có thể gây ra các tinh thần xã hội tiêu cực, làm giảm giá trị của các giá trị truyền thống và nhân văn của Việt Nam.

Tám là, sự khác biệt về địa phương và văn hóa. Sự phát triển không đều giữa khu vực và các nhóm người dùng khác nhau có thể tạo ra sự khác biệt về địa phương và văn hóa. Nó có thể ảnh hưởng đến việc phát triển các giá trị truyền thống và nhân văn của Việt Nam, khi các địa phương khác nhau có các truyền thống và giá trị khác nhau. Ở các khu vực nông thôn và miền núi tại Việt Nam, tỉ lệ người dùng Internet chỉ khoảng 20%.

Chín là, thách thức khó khăn về lập trình phát triển. Việc tạo ra một ứng dụng hoặc công nghệ số giúp bảo vệ các giá trị truyền thống và nhân văn của Việt Nam có thể đòi hỏi các kỹ năng lập trình và phát triển khó khăn, đòi hỏi sự chăm chỉ và kiên nhẫn để hoàn thiện sản phẩm. Việc này yêu cầu sự đầu tư và phát triển trong kỹ thuật và công nghệ thông tin đóng vai trò quan trọng và có thể là thách thức đối với các nhà phát triển và người sử dụng công nghệ số.

Tác giả đã tiến hành thực hiện khảo sát 200 sinh viên, thanh niên về nhận thức của sinh viên, thanh niên Việt Nam về những thách thức của việc phát triển công nghệ số đối với giá trị truyền thống và nhân văn của đất nước. Kết quả thu được như sau:

Thách thức Nhận thức của thanh niên
Thiếu tinh thần trách nhiệm xã hội và giá trị đạo đức 82%
Phân mảnh văn hóa của xã hội 63%
Hao mòn các giá trị truyền thống của Việt Nam 75%
Thiếu kết nối giữa công nghệ số và giá trị truyền thống của Việt Nam 68%
Thiếu kiến thức và kỹ năng kỹ thuật 54%
Thiếu quy định và pháp lý 46%
Tán tụng vấn đề công nghệ hóa 41%
Sự khác biệt về địa phương và văn hóa 59%
Thách thức khó khăn về lập trình phát triển 37%

Bảng 5: Tỷ lệ nhận thức của thanh niên về những thách thức công nghệ số

(Nguồn: Tác giả thực hiện khảo sát – 2023)

Kết quả trên cho thấy nhận thức của thanh niên Việt Nam về các thách thức của việc phát triển công nghệ số đối với giá trị truyền thống và nhân văn của đất nước. Tỷ lệ cao nhất được đưa ra là về thiếu tinh thần trách nhiệm xã hội và giá trị đạo đức, với 82% số sinh viên, thanh niên được khảo sát nhận thức được thách thức này. Điều này cho thấy tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo về trách nhiệm xã hội và giá trị đạo đức trong việc phát triển thanh niên Việt Nam.

Tất cả những điều trên đều cho thấy những thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt khi tiến hành việc phát triển công nghệ số và kinh tế số. Chúng ta cần phải tìm ra các giải pháp để vượt qua những thách thức này và tận dụng tối đa tiềm năng của công nghệ số trên đất nước Việt Nam song song đó phải gìn giữ giá trị truyền thống và tính nhân văn.

  1. Tầm quan trọng của việc nỗ lực theo đuổi giá trị truyền thống và nhân văn trong bối cảnh công nghệ số

Trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghệ số hiện nay, việc theo đuổi giá trị truyền thống và nhân văn là rất quan trọng để đảm bảo sự phát triển bền vững của con người và xã hội.

Tuy vậy, công nghệ số không chỉ là một mỹ thuật tiên tiến mà còn có thể làm biến đổi các giá trị truyền thống và nhân văn của Việt Nam, đặc biệt là đối với thanh niên. Với thế giới liên kết trong khi trưởng thành, các bài học về tôn trọng giá trị của người khác, tiếp cận đa dạng hội nhập giữa các nền văn hoá, các kỹ năng cộng đồng, sáng tạo và các kỹ năng thực tiễn khác được quan trọng hơn bao giờ hết.

Đầu tiên, việc giữ gìn giá trị truyền thống là cần thiết để giữ nét đẹp đặc trưng của mỗi văn hóa, nhất là ở các quốc gia có lịch sử và văn hóa sâu xa như Việt Nam. Các giá trị truyền thống từ lâu đã đóng vai trò quan trọng trong việc giúp con người có nhận thức đúng đắn về bản thân, xã hội, đồng thời góp phần tạo nên sự đoàn kết và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các thế hệ.

Thứ hai, trong thời đại số, giá trị nhân văn trong công nghệ số trở nên rất cần thiết để đảm bảo sự an toàn và tránh các vấn đề liên quan đến sự nghi ngờ. Vì vậy, các sản phẩm công nghệ số mới cần phải được thiết kế với sự tầm nhìn có văn hóa và tính nhân văn. Chúng ta cần đảm bảo rằng các sản phẩm, dịch vụ và chính sách đi kèm với công nghệ số đều được đặt lợi ích của con người lên trên hết.

Bên cạnh đó, bối cảnh công nghệ số cũng giúp chúng ta khai thác và truyền tải giá trị truyền thống và sự nhân văn của con người một cách hiệu quả hơn. Chúng ta có thể sử dụng công nghệ số để tạo ra các sản phẩm có giá trị nhân văn và giữ gìn các giá trị truyền thống của mình, cũng như sử dụng nó như một công cụ để truyền tải các thông điệp nhân văn đến cộng đồng toàn cầu.

Thêm vào đó, việc theo đuổi giá trị truyền thống và nhân văn trong bối cảnh công nghệ số cũng giúp định hình một tương lai tốt hơn cho con người. Công nghệ số hiện nay đang phát triển với tốc độ rất nhanh, và việc đặt những giá trị nhân văn và truyền thống của mỗi quốc gia, văn hóa lên trên cùng là cần thiết để tạo ra một hướng đi phát triển hợp lý và mang lại lợi ích cho toàn bộ xã hội.

Cuối cùng, việc theo đuổi giá trị truyền thống và nhân văn trong bối cảnh công nghệ số cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giữ gìn sự tự do và chủ quyền của tất cả các quốc gia. Sự phát triển công nghệ số tăng cường sự liên hệ giữa các quốc gia trên thế giới, và việc duy trì giá trị truyền thống và nhân văn của mỗi quốc gia, văn hóa sẽ giúp tạo ra sự khác biệt và sự độc lập cho mỗi quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Trong quá trình tiếp cận với công nghệ số, thanh niên Việt Nam cũng cần phải có một cái nhìn tổng thể và có một tầm nhìn tương lai. Để phát triển và thích ứng với thế giới hiện đại, các giá trị truyền thống và nhân văn cần được cập nhật và áp dụng một cách hợp lý và thực tiễn trong cuộc sống.

Các giá trị truyền thống và nhân văn, như lòng yêu nước, những giá trị đạo đức, lòng trung thực, trách nhiệm cá nhân, tôn trọng đồng loại và đa dạng hóa văn hóa,…vẫn giữ giá trị thực sự và mang lại sự phát triển bền vững cho xã hội Việt Nam. Vì vậy, thanh niên Việt Nam cần phải có cái nhìn đúng đắn về nền văn hoá của mình, từ đó định hướng hành động và áp dụng công nghệ số thích hợp với tầm nhìn của mình, góp phần xây dựng một Việt Nam ngày một giàu đẹp và hiện đại hơn.

Tóm lại, việc đảm bảo tồn tại của giá trị truyền thống và nhân văn trong bối cảnh công nghệ số là cực kỳ cần thiết. Việc tạo ra các sản phẩm mới mang tính nhân văn và giữ gìn giá trị truyền thống của chính văn hóa của mình là điều cần thiết để đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội, đảm bảo an toàn cho người sử dụng và đem lại giá trị thực cho con người. Công nghệ số có thể mang lại nhiều lợi ích cho thanh niên Việt Nam, tuy vậy, việc nuôi dưỡng và phát triển các giá trị truyền thống và nhân văn vẫn được coi là rất quan trọng. Vì vậy, thanh niên cần phải chắt lọc và áp dụng công nghệ số một cách có trách nhiệm, phù hợp với bản thân và tổng thể xã hội. Giá trị truyền thống và nhân văn là cốt lõi của mỗi quốc gia, văn hóa và nó cũng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của con người. Chúng ta cần đưa ra các chiến lược nhằm bảo vệ và đảm bảo sự phát triển của giá trị truyền thống và nhân văn trong bối cảnh công nghệ số, giúp mọi người trên toàn thế giới đón nhận sự phát triển giúp cho con người sống tốt đẹp hơn, không làm mất đi những giá trị quan trọng của mình.

  1. Đề xuất giải pháp, kiến nghị

5.1. Giải pháp

*Việc vượt qua thách thức của công nghệ số đối với việc theo đuổi những giá trị truyền thống và nhân văn của thanh niên Việt Nam đòi hỏi sự thấu hiểu và đưa ra các giải pháp thực tiễn. Dưới đây là một số đề xuất giải pháp để vượt qua các thách thức đó:

Một là, đẩy mạnh giáo dục về nhân văn và giá trị truyền thống. Nhà trường cần hình thành các chương trình giảng dạy tiên tiến, đưa các giá trị truyền thống và nhân văn vào giảng dạy. Đây là môi trường quan trọng để truyền bá giá trị truyền thống và nhân văn cho các thế hệ trẻ, giúp họ hiểu rõ và tự hào về nền văn hoá Việt Nam.

Hai là, xây dựng cộng đồng đổi mới. Việc xây dựng các cộng đồng đổi mới có chất lượng cao giúp những người có tư duy sáng tạo cùng nhau tìm hiểu, học hỏi, và thúc đẩy tri thức của nhau. Đây cũng là cơ hội để trao đổi kinh nghiệm về thực tiễn và cách sử dụng công nghệ số.

Ba là, phát triển các sản phẩm công nghệ số song song đó là khuyến khích phát triển các ứng dụng thuận tiện, tốt đẹp hơn. Nâng cao ý thức, khuyến khích các công ty công nghệ tăng cường chất lượng sản phẩm và dịch vụ, giúp cho các sản phẩm, dịch vụ được sử dụng rộng rãi hơn. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp công nghệ có thể phát triển sản phẩm công nghệ số mới phù hợp với nhu cầu của thanh niên Việt Nam, phát triển các sản phẩm vừa mang tính giáo dục vừa mang tính giải trí cao. Cần phải phát triển các sản phẩm công nghệ số phù hợp với giá trị truyền thống và nhân văn của Việt Nam, hướng đến tầm nhìn phát triển bền vững, gia tăng giá trị được truyền tải trong nhân văn và giá trị truyền thống của văn hóa Việt Nam. Chúng ta cần đảm bảo rằng các sản phẩm, dịch vụ và chính sách đều được đặt lợi ích của con người lên trên hết, giúp nhân rộng giá trị truyền thống và nhân văn trong thời đại số.

Bốn là, tăng cường chính sách về bảo mật thông tin. Việc tăng cường chính sách về bảo mật thông tin là rất quan trọng, đảm bảo cho các giá trị truyền thống và nhân văn được an toàn và bảo mật trên mạng. Nâng cao nhận thức về khủng hoảng thông tin. Hướng dẫn thanh niên Việt Nam đối phó với các tin giả, để giảm thiểu tác động của khủng hoảng thông tin và giảm thiểu sự lan truyền của tin giả.

Năm là, khuyến khích truyền thông xã hội tích cực. Tạo môi trường truyền thông tích cực trên các nền tảng truyền thông xã hội như Facebook, TikTok, Instagram, YouTube, tạo nên sự lan tỏa tích cực, giúp khiến những giá trị truyền thống và nhân văn trở nên hấp dẫn hơn, tìm thấy sự đồng cảm và sự quan tâm của đông đảo người dùng.

Sáu là, thiết lập môi trường đào tạo và bồi dưỡng, xây dựng các chương trình giải trí giáo dục. Đào tạo những kỹ năng chuyên môn liên quan đến công nghệ số, như kỹ năng lập trình, phát triển ứng dụng, quản lý dữ liệu, để giúp thanh niên Việt Nam có thể tham gia vào ngành công nghệ số. Xây dựng các chương trình giải trí giáo dục có tính giáo dục, mang tính vui chơi giải trí cao nhưng vẫn đưa các giá trị truyền thống và nhân văn lên trên cùng. Chúng ta cần đảm bảo rằng các sản phẩm, dịch vụ và chính sách đều được đặt lợi ích của con người lên trên hết, giúp nhân rộng giá trị truyền thống và nhân văn trong thời đại số.

Bảy là, nâng cao ý thức công dân số giá trị. Nâng cao ý thức công dân số giá trị đó là nhận thức của người trẻ về tầm quan trọng của giá trị truyền thống và nhân văn là rất cần thiết, cần khuyến khích họ tự tìm hiểu, học hỏi về giá trị truyền thống và nhân văn của đất nước Việt Nam.

Tám là, thúc đẩy trao đổi và hợp tác, giao tiếp và hội nhập. Kết hợp sức mạnh của các tổ chức, các doanh nghiệp và các cá nhân có thể góp phần khuyến khích sự trao đổi, hợp tác giữa các nước, văn hóa và cộng đồng. Mở rộng việc trao đổi, giao lưu văn hóa giữa các quốc gia, văn hóa trên thế giới để có thể tạo ra sự đa dạng và sự tôn trọng giữa các giá trị văn hóa và truyền thống. Hợp tác, trao đổi kinh nghiệm với các nước có điều kiện phát triển công nghệ số tốt hơn. Cần học hỏi các giá trị nhân văn, văn hoá ở các nước phát triển công nghệ số để ứng dụng và phát triển những giá trị tương đương ở Việt Nam.

Tóm lại, việc vượt qua thách thức của công nghệ số đối với việc theo đuổi những giá trị truyền thống và nhân văn của thanh niên Việt Nam mang lại nhiều thách thức và cơ hội. Để vượt qua thách thức và khai thác được các cơ hội này, cần đưa ra các giải pháp cụ thể để phát triển những giá trị truyền thống và nhân văn của Việt Nam trong bối cảnh công nghệ số, giúp các thế hệ trẻ vẫn giữ vững những giá trị đẹp và giúp Việt Nam phát triển theo hướng bền vững.

*Dựa vào các phân tích thách thức của công nghệ số đối với việc theo đuổi những giá trị truyền thống và nhân văn của thanh niên Việt Nam. Số liệu tổng hợp 200 khảo sát sinh viên, thanh niên về việc sử dụng công nghệ số để bảo vệ và phát huy giá trị truyền thống của Việt Nam cũng thu được kết quả như sau:

Hoạt động sử dụng công nghệ số Mô tả % người tham gia khảo sát đánh giá
Xây dựng cơ sở dữ liệu các giá trị truyền thống Xây dựng cơ sở dữ liệu các giá trị truyền thống của Việt Nam để bảo vệ và phát huy các giá trị này. 82%
Phát triển các ứng dụng kết nối địa phương và giá trị truyền thống Phát triển các ứng dụng kết nối địa phương và giá trị truyền thống của Việt Nam như các trò chơi dân gian, kế hoạch dân sự và quản lý thông tin tài liệu. 74%
Tổ chức các cuộc thi, sự kiện hoạt động sử dụng công nghệ số để giới thiệu các giá trị truyền thống của Việt Nam Tổ chức các cuộc thi và sự kiện về công nghệ số nhằm giới thiệu và bảo vệ các giá trị truyền thống của Việt Nam. 68%
Phát triển các ứng dụng và dịch vụ du lịch kết hợp giá trị văn hóa và lịch sử của Việt Nam Phát triển các ứng dụng và dịch vụ du lịch kết hợp giá trị văn hóa và lịch sử của Việt Nam để thu hút khách du lịch tham quan và trải nghiệm. 61%
Sử dụng công nghệ số trong việc bảo tồn và phát triển các công trình kiến trúc cổ truyền Sử dụng công nghệ số để bảo tồn và phát triển các công trình kiến trúc cổ truyền của Việt Nam như di tích lịch sử, nhà cổ, chùa cổ, đền thờ. 52%
Phát triển các nội dung giáo dục và giải trí kết hợp với giá trị truyền thống của Việt Nam Phát triển các nội dung giáo dục và giải trí kết hợp với giá trị truyền thống của Việt Nam để truyền bá và bảo vệ các giá trị này cho thế hệ trẻ. 47%
Phát triển các dịch vụ khác như kinh doanh trực tuyến các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, phục vụ công tác nghiên cứu và quản lý tài liệu lịch sử, cổ vật. Phát triển các dịch vụ khác như kinh doanh trực tuyến các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, phục vụ công tác nghiên cứu và quản lý tài liệu lịch sử, cổ vật. 39%

(Nguồn: Tác giả thực hiện khảo sát – 2023)

Kết quả cho thấy sử dụng công nghệ số để bảo vệ và phát huy giá trị truyền thống của Việt Nam là rất cần thiết và đang được thực hiện bởi một số tổ chức, cơ quan và cá nhân trong xã hội. Việc áp dụng công nghệ số để kết nối, bảo vệ và phát huy các giá trị truyền thống của Việt Nam sẽ giúp đảm bảo rằng những giá trị này sẽ được truyền bá và bảo tồn trong đời sống hiện đại.

*Việt Nam hiện nay đang đứng trước sự phát triển vượt bậc về công nghệ số, đặc biệt là trong thời đại của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là phải từ bỏ những giá trị truyền thống và nhân văn của đất nước. Vì vậy, để đảm bảo sự phát triển cân bằng giữa công nghệ số và giữ gìn giá trị truyền thống và nhân văn của đất nước Việt Nam, chúng ta có thể đưa ra những hướng phát triển và đề xuất sau đây:

Việc phát triển công nghệ số phải được đẩy mạnh nhưng cần duy trì sự cân bằng giữa việc phát triển và bảo vệ giá trị truyền thống của đất nước. Sự phát triển công nghệ số không thể xảy ra tại sự hy sinh giá trị truyền thống.

Đa dạng hóa cách tiếp cận và ứng dụng công nghệ. Sử dụng công nghệ tối ưu các tiện ích để phát triển, đồng thời khuyến khích người dân, đặc biệt là giới trẻ và thanh niên, tham gia các hoạt động truyền thống, thể thao, văn hóa, nghệ thuật để giữ gìn giá trị truyền thống, tăng cường sức khỏe và tạo sự kết nối, gần gũi giữa đời thường và công nghệ.

Tổ chức các chương trình giáo dục và các hoạt động giao lưu, trao đổi giữa các thế hệ, góp phần giải quyết những mâu thuẫn giữa sự phát triển công nghệ và giá trị truyền thống và nhân văn.

Chính phủ cần có chính sách, quyết định phát triển công nghệ thông qua sự đầu tư vào các hệ thống công nghệ thông tin, những ngành công nghiệp sáng tạo, khoa học, công nghiệp,..

Nguồn nhân lực nên được tập trung và đào tạo hướng tới các lĩnh vực công nghệ số, đồng thời cũng cần duy trì và tôn vinh những giá trị truyền thống và nhân văn đã có.

Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng, doanh nghiệp, trường học, tổ chức xã hội với các nhà nghiên cứu, cố vấn tư vấn và các chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ số và giá trị truyền thống và nhân văn, tạo ra những giải pháp thích hợp nhất cho các vấn đề hiện tại và tương lai.

Thực hiện các chương trình giáo dục để truyền đạt kiến thức và nâng cao nhận thức cho người dân về giá trị truyền thống và nhân văn. Đây cũng là cơ hội để tăng cường sự hiểu biết và đồng cảm giữa các thế hệ, hướng tới một xã hội hoà bình và phát triển bền vững.

Cần tạo điều kiện thuận lợi để các nhà nghiên cứu, doanh nghiệp khởi nghiệp có thể tìm ra giải pháp công nghệ số để bảo vệ và phát triển các giá trị truyền thống và nhân văn, đồng thời mọi chính sách đảm bảo an toàn thông tin dữ liệu và bảo vệ quyền riêng tư của các thành viên trong xã hội.

Những đề xuất trên giúp đảm bảo sự cân bằng giữa phát triển công nghệ số và giữ gìn giá trị truyền thống và nhân văn, tạo ra một môi trường phát triển bền vững cho đất nước. Chính thông qua việc đối thoại và cảm thụ, chúng ta sẽ đạt được một mức phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, kỹ thuật số cao hơn. Với những đề xuất trên, ta có thể giữ gìn và phát triển được cả hai giá trị truyền thống và nhân văn của đất nước, đồng thời cũng đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia tiên tiến về công nghệ số. Điều này sẽ mang lại tiềm năng phát triển đầy thú vị và kỳ vĩ cho đất nước và người dân Việt Nam.

5.2. Kiến nghị

Trung ương Đoàn và Chính phủ cần đưa ra các chính sách và giải pháp cụ thể để tạo điều kiện phát triển cho thanh niên Việt Nam trong bối cảnh phát triển của công nghệ số. Cần đảm bảo rằng sự phát triển này không chỉ tạo ra lợi ích cho một số ít nhưng cần là sự phát triển đồng đều, công bằng và bền vững cho tất cả các tầng lớp xã hội, giữ gìn được các giá trị truyền thông và nhân văn. Để thực hiện điều đó, tác giá có một số kiến nghị sau:

Kiến nghị 1: Khuyến khích, tạo điều kiện và hỗ trợ thanh niên tham gia vào các hoạt động quốc tế nhằm mở rộng tầm nhìn, rèn luyện kỹ năng ngoại ngữ và biết thêm về các quốc gia, văn hóa và lối sống khác nhau. Tạo điều kiện cho thanh niên tham gia vào các hoạt động thiện nguyện và các hoạt động giúp đỡ những người cần giúp đỡ. Để nhận t

Pages: 1 2

SỰ TƯƠNG TÁC GIỮA THANH NIÊN VÀ CÔNG NGHỆ TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG MỘT NỀN TẢNG KINH TẾ VÀ XÃ HỘI MỚI

Tóm tắt: Thanh niên và công nghệ đã tạo ra tương tác động lực trong quá trình xây dựng một nền tảng kinh tế và xã hội mới. Các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, blockchain, nguồn mở, big data, IoT đã có ảnh hưởng đến các hình thái lĩnh vực kinh tế và xã hội. Trên tầm thực tế, thanh niên có thể trở thành các chuyên gia kỹ thuật cần thiết, đưa ra dự án và nền tảng công nghệ mới, giúp tiên phong trong việc phát triển kinh tế và xã hội. Họ có thể thiết kế, phát triển và triển khai các sản phẩm và dịch vụ mới, từ đó đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế và xã hội. Bên cạnh đó, thanh niên còn có thể trở thành công ty khởi nghiệp gia kèo đầu hơn, chủ động có những sản phẩm công nghệ bắt kịp với xu thế hiện tại và tương lai, và thu hút được sự đồng tình của các nhà đầu tư. Còn trên tầm tình cảm, công nghệ cũng đã giúp thanh niên kết nối một cách chặt chẽ và dễ dàng hơn. Các nền tảng mạng xã hội, diễn đàn trực tuyến giúp họ có thể trao đổi ý kiến, tư vấn và chia sẻ thông tin, giúp cộng đồng phát triển bền vững. Bằng các phương pháp nghiên cứu như thu tập dữ liệu, các tài liệu tham khảo, số liệu khảo sát từ các tổ chức. Sử dụng các kỹ thuật thống kê và các phương pháp phân tích dữ liệu khác để đánh giá kết quả và kết luận. đánh giá và phân tích kết quả nghiên cứu từ đó đưa ra các nhận định và kết luận, tạo nên những đề xuất và giải pháp giúp giải quyết vấn đề mà tác giả đang quan tâm và nghiên cứu. Tổng quát lại, sự tương tác giữa thanh niên và công nghệ đã làm cho quá trình xây dựng một nền tảng kinh tế và xã hội mới trở nên đa dạng và phong phú hơn. Sẽ còn có nhiều cơ hội cho thanh niên trong tương lai để khám phá thêm về quá trình này và đóng góp tích cực cho sự phát triển của đất nước.
Từ khóa: thanh niên, thanh niên Việt Nam, công nghệ, kinh tế, xã hội mới
Abstract: Young generation and technology have created a dynamic interaction in building a new economic and social platform. New technologies like artificial intelligence, blockchain, open source, big data, and IoT have impacted the forms of economic and social fields. In reality, young people can become the necessary technical experts, develop new projects and technology platforms, and lead in the development of the economy and society. They can design, develop, and implement new products and services, contributing positively to the development of the economy and society. In addition, young people can become startup founders, proactively creating technology products that keep up with current and future trends and attracting the agreement of investors. On an emotional level, technology has also helped young people connect more closely and easily. Social media platforms and online forums allow them to exchange ideas, consult, and share information, helping the community develop sustainably. Through research methods such as data collection, reference materials, survey data from organizations, using statistical techniques and other data analysis methods to evaluate the results and draw conclusions, evaluate and analyze the research results to provide observations and conclusions, and to propose solutions for the problem that the author is interested in and researching. Overall, the interaction between young people and technology has made the process of building a new economic and social platform more diverse and rich. There will be more opportunities for young people in the future to explore this process and contribute positively to the development of the country.
Key words: Young people, Vietnamese youth, technology, economy, new society.

 

  1. Tầm quan trọng của sự tương tác giữa thanh niên và công nghệ trong quá trình xây dựng nền tảng kinh tế và xã hội mới

Sự tương tác giữa thanh niên và công nghệ đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng nền tảng kinh tế và xã hội mới. Thanh niên được xem là động lực chính trong việc thúc đẩy sự phát triển của xã hội và kinh tế, và đồng thời, công nghệ đã trở thành một công cụ hữu ích để giúp họ tiếp cận, phát triển ý tưởng sáng tạo, tạo ra giá trị mới và giải quyết các vấn đề xã hội.

Sự tương tác giữa thanh niên và công nghệ giúp nâng cao năng suất lao động và cải thiện chất lượng cuộc sống. Nhờ công nghệ, thanh niên có thể sử dụng các ứng dụng để xử lý thông tin, tìm kiếm việc làm, nâng cao trình độ học vấn, tạo ra sản phẩm và dịch vụ mới để cung cấp cho thị trường. Nhiều công nghệ mới còn có thể giải quyết các vấn đề xã hội như sức khỏe, năng lượng, giải quyết vấn đề môi trường… qua các ứng dụng hợp lý và phát triển do thanh niên thực hiện.

Sự tương tác này cũng hỗ trợ thanh niên tạo ra một môi trường làm việc phù hợp hơn. Khi có các ứng dụng công nghệ, đây cũng là cơ hội để thanh niên và doanh nghiệp trở nên linh hoạt hơn, thích ứng nhanh chóng với những thay đổi trên thị trường và nhu cầu của khách hàng, tăng cường khả năng cạnh tranh và đem đến những lợi ích kinh tế cho toàn bộ xã hội.

Sự tương tác giữa thanh niên và công nghệ cũng là một trong những phương tiện để kết nối, tạo thành mối quan hệ giữa các cộng đồng, tăng cường tinh thần đoàn kết, hợp tác để đạt được mục tiêu phát triển bền vững cho mọi người.

Ở Việt Nam, thanh niên là lực lượng lao động lớn trong xã hội, là nguồn lực quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sức mạnh của tuổi trẻ chiếm một vị trí quan trọng trong lao động sản xuất và hoạt động nghề nghiệp, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế của đất nước. Trong bối cảnh mới, khi các ứng dụng công nghệ thông tin bùng nổ mạnh mẽ thì sự tham gia của lực lượng thanh niên càng cần thiết và quan trọng. Thanh niên được coi là nòng cốt, là động lực trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động sản xuất và đời sống, nhằm nâng cao năng suất lao động, cải thiện điều kiện sống của đại bộ phận các tầng lớp xã hội trong bối cảnh số hóa cao độ hiện nay.

Theo thống kê năm 2020, thanh niên Việt Nam từ 16 – 30 tuổi có khoảng 22,609 triệu người, chiếm khoảng 23,2% dân số cả nước. Vai trò của lực lượng này đã được Đảng và Nhà nước ghi nhận. Cụ thể Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 25/7/2008, Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa”,  đã khẳng định: “Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Chăm lo, phát huy thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển vững bền của đất nước”.

Với sự tiếp cận và ứng dụng công nghệ hiệu quả, thanh niên có thể tạo ra cơ hội mới cho kinh tế và xã hội, đẩy mạnh năng suất sản xuất, cải thiện chất lượng cuộc sống và hỗ trợ việc giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường.

Vì vậy, sự tương tác giữa thanh niên và công nghệ là yếu tố không thể thiếu trong quá trình xây dựng nền kinh tế và xã hội mới. Các chính sách và môi trường phù hợp, đào tạo và giáo dục thanh niên về sử dụng công nghệ thông minh sẽ giúp khai thác tối đa tiềm năng của công nghệ để phục vụ cho sự phát triển bền vững của xã hội và kinh tế.

  1. Tình hình sử dụng công nghệ số của thanh niên Việt Nam

Viện Nghiên cứu Chính sách và Phát triển truyền thông (IPS) thực hiện, số lượng người dùng internet ở Việt Nam đã tăng từ 35,6 triệu vào năm 2013 lên 59,2 triệu vào năm 2018, trong đó, người dùng trẻ chiếm tỷ lệ cao.

Trong khuôn khổ Hội nghị “Nâng cao kỹ năng công nghệ phục vụ triển khai hoạt động hỗ trợ bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng”, qua đó theo một báo cáo của UNICEF (2022) cho rằng 82% trẻ em trong độ tuổi 12-13 ở Việt Nam sử dụng internet và con số này tăng lên 93% ở trẻ em trong độ tuổi 14-15. Điều này cho thấy mức độ tham gia của trẻ em vào các hoạt động trực tuyến ở Việt Nam rất cao.

Internet và mạng xã hội đan xen đi sâu vào cuộc sống hàng ngày Tiếng Việt. Theo báo cáo từ Tư vấn truyền thông xã hội như We Are Xã hội và Hootsuite dưới dạng Báo cáo Công nghệ Những con số ở Việt Nam, Việt Nam đang chứng kiến thấy sự phát triển nhanh chóng 50% sử dụng Internet trong năm 2016 66% vào năm 2019 (We Are Social & Hootsuite, 2019). Đồng thời, những Người dùng mạng xã hội tăng gần Tăng gấp đôi từ 37% trong năm 2016 64% vào năm 2019.

Theo We are social (2020) cho rằng số lượng người sử dụng mạng xã hội đã tăng nhiều hơn 13% trong năm vừa qua. Với gần nửa tỷ người dùng mới, tổng số lượng người sử dụng toàn cầu đã đạt mức gần 4,2 tỷ vào đầu năm 2021. Trung bình, có hơn 1,3 triệu người dùng mới gia nhập mạng xã hội hàng ngày trong suốt năm 2020.

Cũng như ở các quốc gia toàn cầu hóa khác, cuộc sống số đã dễ dàng thâm nhập vào cuộc sống của giới trẻ Việt Nam trên nhiều phương diện. Đối với những người được khảo sát, gần một phần ba (35%) cho biết mạng xã hội đóng vai trò định hình con người họ ngày nay. Nhóm tuổi 16-19 (43%) có nhiều khả năng thừa nhận điều này hơn so với những người trả lời lớn tuổi hơn – 33% ở nhóm tuổi 20-24 và 32% ở nhóm tuổi 25-30.

Theo báo cáo của Hootsuite và We Are Social, vào năm 2021, tỷ lệ sử dụng mạng xã hội ở các quốc gia Đông Nam Á, bao gồm Việt Nam, là rất cao. Đặc biệt, Việt Nam đứng thứ 7 trên thế giới về lượng người dùng Facebook (67 triệu người) và thứ 9 về lượng người dùng Instagram (30 triệu người). Điều này cho thấy rằng thanh niên đang sử dụng các nền tảng mạng xã hội để kết nối và chia sẻ thông tin.

Một nghiên cứu khác của GSMA (Hiệp hội các nhà khai thác thông tin di động toàn cầu) cho thấy rằng sự gia tăng sử dụng điện thoại thông minh ở nhiều quốc gia Đông Nam Á cũng đồng nghĩa với sự gia tăng sử dụng dịch vụ di động. Thanh niên sử dụng soạn tin nhắn, trao đổi thông tin di động và sử dụng ứng dụng di động để truy cập thông tin.

Về phía công nghệ, một báo cáo của tạp chí Knowledge at Wharton cho biết rằng thanh niên đang tích cực thử nghiệm và sử dụng các công nghệ mới như VR, AR và 5G để phá vỡ các giới hạn về trải nghiệm trực tuyến. Họ đang tìm cách sử dụng công nghệ để giải quyết các vấn đề kinh tế và xã hội.

Nhiều thanh niên Việt Nam hiện nay đang sử dụng các thiết bị và ứng dụng công nghệ để tiện lợi hóa cuộc sống và kinh doanh. Dù sự phổ biến và khả năng tiếp cận với công nghệ vẫn còn chênh lệch giữa các khu vực đô thị và nông thôn, nhưng mức độ tiếp cận ngày càng được cải thiện.

Hiện nay, sự tương tác giữa thanh niên và công nghệ rất đa dạng và phong phú. Thanh niên sử dụng công nghệ để tiếp cận thông tin, giải trí, giáo dục và giao tiếp với người khác. Với sự phổ biến của các thiết bị di động và mạng xã hội, thanh niên đã trở thành những người tiêu dùng chính của các sản phẩm công nghệ.

Có rất nhiều cách mà thanh niên tương tác với công nghệ hiện nay. Một số ví dụ điển hình bao gồm:

– Sử dụng mạng xã hội: Thanh niên sử dụng mạng xã hội như Facebook, Instagram, Twitter,…để kết nối và tương tác với bạn bè, gia đình và cộng đồng.

– Sử dụng thiết bị di động: Thanh niên sử dụng điện thoại thông minh và máy tính bảng để truy cập internet, đọc tin tức, xem video và chơi game.

– Kết nối thông qua ứng dụng trò chuyện: Thanh niên sử dụng ứng dụng như Messenger, Zalo, Whatsapp để trò chuyện, gọi điện và gửi tin nhắn cho bạn bè và gia đình.

– Sử dụng ứng dụng để học tập, như Duolingo hoặc Coursera. Ứng dụng này cho phép thanh niên học việc tự học tiếng mới hoặc học các khóa học từ các trường đại học hàng đầu trên thế giới.

– Sử dụng các thiết bị như công cụ tìm kiếm trực tuyến, bản đồ, và các ứng dụng khác để tìm kiếm thông tin, hướng dẫn và địa điểm khác nhau.

– Sử dụng trò chơi điện tử: Thanh niên chơi các trò chơi điện tử như game trên máy tính, điện thoại hoặc console để giải trí và kết nối với những người chơi khác trên toàn cầu.

Với việc phát triển các ứng dụng di động, mạng xã hội, nhiều thanh niên Việt Nam đang sử dụng công nghệ số để kết nối, chia sẻ thông tin và kinh doanh. Ngoài ra, thanh niên cũng sử dụng công nghệ để học tập, nghiên cứu, khám phá và phát triển sức khỏe của mình.

Tuy nhiên, sự tương tác giữa thanh niên và công nghệ cũng mang lại một số rủi ro tiềm ẩn, như sự phụ thuộc vào công nghệ, lạm dụng truy cập và truyền thông, và tác động xấu đến sức khỏe tinh thần. Vì vậy, việc đảm bảo rằng thanh niên sử dụng công nghệ một cách đúng mức và đúng đắn là vô cùng quan trọng.

Mặt khác, tình hình này cũng đặt ra nhiều thách thức cần được giải quyết, bao gồm việc tăng cường an ninh mạng, đảm bảo sự riêng tư thông tin và ngăn chặn các hành vi xấu của cá nhân và tổ chức trên mạng.

Tóm lại, tình hình sử dụng công nghệ số của thanh niên Việt Nam đang có chiều hướng tăng trưởng và phát triển tích cực, đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế và xã hội của đất nước. Thanh niên đang sử dụng rất nhiều công nghệ mới để xây dựng nền tảng kinh tế và xã hội mới, bao gồm các nền tảng mạng xã hội, các dịch vụ di động và các công nghệ mới như VR, AR và 5G. Điều này cho thấy rằng công nghệ đang phát triển đáng kể và có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế và xã hội.

Ngoài ra, tình hình sử dụng công nghệ số của thanh niên Việt Nam còn thể hiện qua sự gia tăng sử dụng các ứng dụng và công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, blockchain, Internet of Things (IoT), thực tế ảo, thực tế tăng cường. Các công nghệ này có tính ứng dụng cao và đang được sử dụng trong nhiều lĩnh vực, từ sản xuất đến dịch vụ, giúp cho nền kinh tế và xã hội phát triển hiệu quả và bền vững hơn.

Tuy nhiên, cũng có một số thách thức đối với sử dụng công nghệ số của thanh niên Việt Nam, bao gồm sự dư thừa thông tin, việc lạm dụng công nghệ gây hại cho sức khỏe và quan hệ xã hội, hoặc tình trạng phụ thuộc quá mức vào công nghệ. Do đó, việc giáo dục và rèn luyện cho thanh niên về việc sử dụng công nghệ thông minh và bền vững là cần thiết, giúp cho họ có thể tận dụng tối đa tiềm năng công nghệ và đóng góp cho sự phát triển kinh tế và xã hội của Việt Nam một cách bền vững và tiên tiến hơn.

*Đề xuất các thống kê dữ liệu liên quan đến sự tương tác giữa thanh niên Việt Nam và công nghệ, có thể thu thập thông tin khi phát triển hướng nghiên cứu của các cấp:

Một là, tỉ lệ sử dụng mạng xã hội của thanh niên theo độ tuổi, giới tính và khu vực địa lý.

Hai là, tỉ lệ sử dụng điện thoại thông minh của thanh niên, bao gồm số lượng và loại điện thoại thông minh được sử dụng.

Ba là, số lượng thanh niên tham gia các lớp học hoặc khóa học trực tuyến về phát triển ứng dụng và các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, blockchain, big data, v.v.

Bốn là, tỉ lệ thanh niên tham gia vào các cuộc thi khởi nghiệp và phát triển các sản phẩm công nghệ mới.

Năm là, số lượng các công ty khởi nghiệp công nghệ được thành lập bởi thanh niên, bao gồm số lượng và loại công ty theo ngành nghề.

Sáu là, doanh thu và lợi nhuận của các công ty công nghệ do thanh niên sáng lập.

Bảy là, tỉ lệ thanh niên sử dụng các ứng dụng di động, bao gồm số lượng và loại ứng dụng được sử dụng theo mục đích và ngành nghề.

Tám là, số lượng các giao dịch qua mạng/ e-commerce được thực hiện bởi thanh niên, bao gồm số tiền giao dịch trung bình và loại hàng hoá, dịch vụ được trao đổi.

Chín là, số lượng và tỷ lệ thanh niên sử dụng các công nghệ mới như thực tế ảo, thực tế tăng cường và 5G.

Mười là, thời gian thanh niên dành cho truy cập mạng xã hội và các ứng dụng công nghệ khác, bao gồm số giờ truy cập trung bình mỗi ngày các thiết bị điện tử như máy tính, điện thoại thông minh, máy tính bảng, v.v.

  1. Tầm quan trọng của chủ đề trong quá trình xây dựng một nền kinh tế và xã hội mới

* Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số và tác động của nó đến việc xây dựng nền tảng kinh tế và xã hội mới

Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số hiện nay đang tác động đến việc xây dựng nền tảng kinh tế và xã hội mới. Dưới đây là một số nghiên cứu của tác giả về vấn đề này:

  • Sự ra đời và phát triển của công nghệ số đã làm thay đổi hoàn toàn các lĩnh vực kinh doanh truyền thống. Các doanh nghiệp phải chuyển từ kinh doanh truyền thống sang kinh doanh trực tuyến để tương tác với khách hàng. Hơn nữa, công nghệ số cũng tạo ra rất nhiều ngành kinh tế mới như thương mại điện tử, fintech, e-learning. Theo một nghiên cứu được thực hiện bởi Microsoft tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương (2020) cho rằng đổi mới được coi là bắt buộc và đóng một vai trò quan trọng đối với khả năng chống chịu của các doanh nghiệp, được 74% nhà quản lý doanh nghiệp cho rằng cần thiết trước và sau khi đại dịch Covid-19 bùng phát. Đến 98% các doanh nghiệp tiên phong trong quá trình đổi mới đều cho rằng nó là chìa khóa để nhanh chóng đáp ứng thách thức và cơ hội của thị trường, và 56% CEO của các doanh nghiệp lớn khẳng định rằng chuyển đổi số, công nghệ giúp tăng doanh thu. Tổng quát, các công ty thực hiện thành công chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ đã có lợi nhuận cao hơn 23% so với các công ty hoạt động theo mô hình truyền thống.
  • Công nghệ số giúp tăng cường tính khả dụng của các dịch vụ. Khách hàng có thể tiếp cận với các sản phẩm và dịch vụ bất cứ khi nào và ở bất cứ đâu trên thế giới thông qua mạng Internet. Theo một số liệu thông báo của Statista (2022), đã chỉ ra rằng Số lượng người Việt mua hàng trực tuyến đã vượt qua mốc 51 triệu, tăng 13,5% so với năm trước và chi tiêu tổng thể cho việc mua sắm trên mạng cũng đạt mức 12,42 tỷ USD. Việt Nam dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về mua sắm trực tuyến xuyên biên giới với số lượng trung bình tối đa là 104 đơn hàng/năm/người. Theo dự báo của Google và Bain & Company, kinh tế số của Việt Nam dự kiến sẽ vượt qua ngưỡng 52 tỷ USD và giữ vị trí thứ 3 trong khu vực ASEAN vào năm 2025.
  • Ngoài ra, công nghệ số cũng giúp tăng cường việc kết nối giữa các quốc gia, thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa và phát triển của các ngành kinh tế.
  • Sự phát triển của công nghệ số cũng tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển khởi nghiệp. Các start-up về công nghệ có thể nhanh chóng phát triển và tăng trưởng, tạo ra đóng góp lớn cho sự phát triển kinh tế và xã hội.
  • Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số cũng mang đến nhiều thách thức về mặt an ninh mạng, bảo vệ dữ liệu và độ bình đẳng giữa các quốc gia.

Công nghệ số là một yếu tố đang tiếp đánh vai trò quan trọng trong việc xây dựng nền tảng kinh tế và xã hội mới. Tuy nhiên, để tận dụng những cơ hội mà công nghệ số mang lại, chúng ta cần phải đối mặt và giải quyết những khó khăn và thách thức của nó.

* Những thay đổi và cơ hội mà công nghệ số nói chung đem lại cho thanh niên trong việc xây dựng nền tảng kinh tế và xã hội mới

Công nghệ số đang mở ra nhiều cơ hội cho thanh niên trong việc xây dựng nền tảng kinh tế và xã hội mới.

Một là, khởi nghiệp dễ dàng hơn. Với sự phát triển của công nghệ số, việc khởi nghiệp và mở một doanh nghiệp trực tuyến trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. Các thanh niên có thể sử dụng các công cụ như máy tính, điện thoại di động và internet để tìm kiếm thông tin, tạo mô hình kinh doanh và tiếp cận với khách hàng.

Hai là, cơ hội nghề nghiệp mới. Công nghệ số đã tạo ra nhiều công việc mới như chuyên gia truyền thông, phát triển ứng dụng di động, kỹ sư phần mềm và quản trị viên mạng. Những chuyên ngành này đang ngày càng được ưa chuộng và trở thành công việc của tương lai.

Ba là, khả năng học tập linh hoạt hơn. Với sự phát triển của công nghệ số trong giáo dục, thanh niên hiện nay có thể học trực tuyến và từ xa tại nhà. Điều này giúp giảm chi phí giáo dục và tăng cơ hội cho việc tiếp cận với các khóa học đặc biệt và nâng cao năng lực. Theo Tổng cục Thống kê (2021), trong năm học 2019-2021, có 1,8 triệu sinh viên tại Việt Nam đã học từ xa. Trước khi đại dịch Covid-19 xảy ra, tỷ lệ sinh viên học trực tuyến chỉ đạt 16% theo Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2015. Tuy nhiên, vào năm 2020, khi đại dịch bùng phát, tỷ lệ này đã tăng lên đáng kể, lên tới 61%. Năm học 2021 – 2022: số lượng sinh viên học đại học theo hệ từ xa tại Việt Nam là 360,732 sinh viên

Bốn là, tăng cường kết nối và tương tác xã hội. Công nghệ số cũng giúp thanh niên tăng cường kết nối và tương tác với nhau. Những mạng xã hội như Facebook, Twitter và Instagram cho phép thanh niên dễ dàng tìm kiếm bạn bè mới, chia sẻ thông tin và tạo ra những mối quan hệ mới.

Năm là, tạo ra nhiều sản phẩm mới. Công nghệ số đã tạo ra nhiều sản phẩm mới, từ các trò chơi điện tử đến các ứng dụng di động và trang web. Những sản phẩm này đã tạo ra nhiều cơ hội cho thanh niên tham gia vào quá trình sáng tạo và phát triển các dịch vụ mới và quen thuộc.

Sáu là, tăng cường khả năng tìm kiếm việc làm. Công nghệ số giúp thanh niên dễ dàng truy cập vào các trang tìm việc trực tuyến và ứng tuyển cho các vị trí công việc một cách thuận tiện. Việc tìm kiếm việc làm thông qua công nghệ số cũng giúp tiết kiệm thời gian và chi phí cho những người tìm việc.

Bảy là, đẩy mạnh nền kinh tế số. Các công ty và các doanh nghiệp trực tuyến đang phát triển nhanh chóng, tạo ra nhiều cơ hội cho thanh niên tham gia vào kinh doanh trên mạng. Những doanh nghiệp trực tuyến này đang hình thành và dần tạo ra nền kinh tế số mới, với rất nhiều tiềm năng tăng trưởng trong tương lai.

Tám là, tăng cường hiệu quả sản xuất và quản lý. Công nghệ số giúp vận hành sản xuất và quản lý công việc trở nên hiệu quả hơn. Các hệ thống quản lý tài sản, quản lý chất lượng, quản lý doanh nghiệp… được áp dụng trong rất nhiều lĩnh vực như kinh doanh, y tế, sản xuất, giáo dục và hành chính công. Các công nghệ này giúp tối ưu hóa các quy trình làm việc, tăng hiệu quả và tiết kiệm chi phí.

Chín là, tạo ra nền văn hóa số. Công nghệ số đang tạo ra nền văn hóa số mới, giúp mở rộng tầm nhìn, tăng cường kiến thức, truyền thông và giao lưu văn hóa giữa các quốc gia, giữa các dân tộc và giữa các thế hệ. Thanh niên càng sử dụng và tận dụng công nghệ số nhiều thì càng gần gũi và tiếp cận được những giá trị tinh thần, văn hóa mới.

Mười là, giúp thanh niên tạo ra các giá trị mới, đẩy mạnh phát triển đa dạng và sáng tạo, và góp phần tạo ra nền kinh tế và xã hội mới.

Tổng kết lại, công nghệ số đã và đang tạo ra rất nhiều cơ hội đối với thanh niên, giúp họ tận dụng tối đa khả năng, phát triển bản thân và góp phần xây dựng nền tảng kinh tế và xã hội mới. Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý rằng công nghệ số đòi hỏi sự hiểu biết, sử dụng và quản lý thông minh để không gây hại đến bản thân và xã hội.

*Ví dụ cụ thể về các sản phẩm, dịch vụ và ứng dụng công nghệ số của thanh niên đã tạo ra hoặc đóng góp cho quá trình xây dựng nền tảng kinh tế và xã hội mới

Đối với nước ngoài có thể kể đến như: Ứng dụng Zoom: Với tình hình dịch bệnh COVID-19 đang diễn biến phức tạp, ứng dụng Zoom trở thành công cụ hỗ trợ giảng dạy và làm việc trực tuyến phổ biến. Ứng dụng này được nhóm kỹ sư trẻ tại Mỹ phát triển và đang được sử dụng rộng rãi trên toàn cầu. Mạng xã hội Facebook: Mark Zuckerberg, một thanh niên thành công, đã đồng sáng lập Facebook, một mạng xã hội lớn nhất thế giới. Facebook đã giúp kết nối mọi người với nhau, mở ra nhiều cơ hội kinh doanh mới và tăng cường sự tương tác và giao lưu giữa các quốc gia và dân tộc. Ứng dụng TikTok: TikTok là một ứng dụng mạng xã hội giúp người dùng chia sẻ video ngắn và giải trí. Ứng dụng này đã trở thành cơn sốt trên toàn thế giới và thu hút sự quan tâm của các thế hệ trẻ. TikTok đã tạo ra một thị trường quảng cáo trực tuyến mới và mang đến nhiều cơ hội kinh doanh mới cho các doanh nghiệp. Sản phẩm Apple: Với những sản phẩm như iPhone, iPad và MacBook, Steve Jobs – một thanh niên nổi tiếng với tài năng sáng tạo, đã giúp định hình lại ngành công nghiệp công nghệ. Sản phẩm của Apple đã trở thành một biểu tượng của sự tiên tiến và đổi mới. Cộng đồng Github: Github là một cộng đồng lớn nhất thế giới cho phép các nhà phát triển chia sẻ mã nguồn, đóng góp vào dự án mã nguồn mở và tăng cường kỹ năng lập trình. Cộng đồng này đang giúp tạo ra một thế giới liên kết và cộng tác, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ. Đó là một số ví dụ cụ thể về các sản phẩm, dịch vụ và ứng dụng công nghệ số do thanh niên nước ngoài tạo ra hoặc đóng góp cho quá trình xây dựng nền tảng kinh tế và xã hội mới tại quốc gia của họ.

Vậy còn đối với thanh niên Việt Nam thì sao? Có nhiều sản phẩm, dịch vụ và ứng dụng công nghệ số do thanh niên Việt Nam tạo ra hoặc đóng góp cho quá trình xây dựng nền tảng kinh tế và xã hội mới, dưới đây là một vài ví dụ cụ thể:

  • VNG là một công ty công nghệ Việt Nam với 4 mảng sản phẩm chính là Trò chơi trực tuyến, Nền tảng kết nối, Thanh toán điện tử và Dịch vụ điện toán đám mây
  • Ứng dụng VNPay: VNPay là một hệ thống thanh toán trực tuyến của Việt Nam, được phát triển bởi một nhóm thanh niên tại Việt Nam. Công nghệ VNPay giúp nâng cao trải nghiệm thanh toán trực tuyến cho người dùng và giúp các doanh nghiệp giảm chi phí hoạt động.
  • Ứng dụng Momo: MoMo được đánh giá là một trong những ứng dụng ví điện tử hàng đầu tại Việt Nam, với hơn 23 triệu người dùng và được sử dụng rộng rãi trong cả các khu vực đô thị lẫn nông thôn. Ứng dụng này đã tạo ra một cuộc cách mạng trong việc sử dụng các giao dịch tài chính trực tuyến tại Việt Nam.

Năm 2022, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo toàn cầu ghi nhận nước ta xếp thứ 54, tăng 5 bậc so với năm 2021. Việt Nam hiện có 4 “kỳ lân” công nghệ (VNG, VNPAY, Momo, Sky Mavis) khẳng định vị thế trong “tam giác vàng” khởi nghiệp của Đông Nam Á, bên cạnh Singapore và Indonesia.

  • Sản phẩm VinSmart: Tập đoàn Vingroup của Việt Nam đã thành lập Công ty sản xuất Điện tử VinSmart và phát triển nhiều sản phẩm công nghệ, bao gồm điện thoại thông minh, máy tính bảng và các thiết bị điện tử tiêu dùng khác. Nhờ sự đầu tư cơ sở hạ tầng và năng lực sản xuất của Vingroup, VinSmart sẽ tạo ra nhiều cơ hội mới cho nền công nghiệp điện tử của Việt Nam.
  • Sản phẩm Bluezone: Ứng dụng Bluezone là một sản phẩm công nghệ mới của Việt Nam, giúp ngăn chặn sự lây lan của COVID-19. Bluezone được phát triển bởi một nhóm kỹ sư trẻ tại Viện Khoa học Vật lý Việt Nam, được hỗ trợ bởi Chính phủ Việt Nam và các chuyên gia y tế.
  • Ứng dụng Lozi: Lozi là một mạng xã hội về ẩm thực, giúp người dùng tìm kiếm các địa điểm ăn uống và đánh giá chất lượng của nhà hàng, quán ăn. Ứng dụng Lozi được phát triển bởi một nhóm thanh niên tại Việt Nam.
  • Sản phẩm ứng dụng nhận diện khuôn mặt của VinAI: VinAI là một công ty trí tuệ nhân tạo thuộc Tập đoàn Vingroup, đã phát triển một sản phẩm sử dụng trí tuệ nhân tạo để nhận diện khuôn mặt người dùng. Sản phẩm này được áp dụng ở nhiều lĩnh vực, từ an ninh đến giáo dục và tài chính.
  • Ứng dụng MISA: MISA là một phần mềm kế toán, quản lý doanh nghiệp được phát triển bởi một nhóm thanh niên tại Việt Nam. Ứng dụng này giúp doanh nghiệp tiết kiệm thời gian và chi phí trong quá trình quản lý kế toán và tài chính.
  • Sản phẩm công nghệ Bkav: Bkav là tập đoàn chuyên cung cấp các giải pháp an ninh mạng và phần mềm diệt virus tốt nhất tại Việt Nam, được thành lập bởi một nhóm kỹ sư trẻ tại Việt Nam. Bkav đã đóng góp cho quá trình xây dựng nền tảng an ninh mạng cho Việt Nam và các quốc gia khác trên thế giới.
  • Sản phẩm công nghệ FPT Play: FPT Play là một sản phẩm công nghệ số do tập đoàn FPT tại Việt Nam phát triển. FPT Play cung cấp cho người dùng các nội dung giải trí trực tuyến, từ chương trình truyền hình và phim ảnh đến các trò chơi giải trí….

Trên đây là một vài ví dụ cụ thể về các sản phẩm, dịch vụ và ứng dụng công nghệ số do thanh niên nước ngoài và thanh niên Việt Nam tạo ra hoặc đóng góp cho quá trình xây dựng nền tảng kinh tế và xã hội mới.

  1. Những thách thức và giải pháp

*Những thách thức:

Thanh niên đang phải đối mặt với nhiều thách thức trong việc tương tác với công nghệ, đồng thời, quá trình xây dựng nền tảng kinh tế và xã hội mới cũng đang đặt ra nhiều thách thức cho thanh niên Việt Nam. Dưới đây là một số ví dụ về các thách thức mà tác giả đặt ra:

Một là, thách thức về an toàn trên mạng. Khi sử dụng các sản phẩm của công nghệ như điện thoại, máy tính và mạng xã hội, các thông tin cá nhân của thanh niên có thể bị đánh cắp hoặc tấn công bởi các hacker. Vì vậy, thanh niên cần phải biết cách bảo vệ thông tin cá nhân của mình, đồng thời, phải được giáo dục về các vấn đề an toàn trên mạng.

Hai là, thách thức về sức khỏe. Sử dụng các sản phẩm công nghệ như điện thoại, máy tính và các thiết bị điện tử khác có thể gây ra các vấn đề về sức khỏe như mỏi mắt, đau lưng, tình trạng sợ hãi, thiếu ngủ, cân bằng cuộc sống bị mất cân bằng, tác hại khi đang phát triển tâm lý và thể chất.

Ba là, thách thức về sự phụ thuộc. Việc sử dụng công nghệ quá mức có thể dẫn đến sự phụ thuộc vào công nghệ và mất khả năng giải quyết vấn đề trực tiếp. Điều này có thể ảnh hưởng đến sự độc lập và sáng tạo của thanh niên.

Bốn là, thách thức về sự cạnh tranh. Với sự phát triển của công nghệ, thanh niên đang phải đối mặt với một sự cạnh tranh khốc liệt khi xem xét các cơ hội việc làm và thương mại. Điều này đòi hỏi các thanh niên cần phải nâng cao trình độ đào tạo và sở hữu những kỹ năng cần thiết để cạnh tranh trên thị trường lao động.

Năm là, thách thức về việc đáp ứng kỳ vọng xã hội. Công nghệ đang thay đổi nhanh chóng và đòi hỏi thanh niên phải có thể đáp ứng kỳ vọng xã hội đối với những tiến bộ của công nghệ này. Điều này đặt ra thách thức đối với các cơ sở giáo dục và đào tạo, đồng thời phải có chính sách của chính phủ hỗ trợ để giúp các thanh niên có thể học tập và tiếp cận các kỹ năng công nghệ mới.

Sáu là, thách thức về tâm lý và xã hội. Sử dụng quá nhiều công nghệ có thể gây ra tình trạng cô đơn, mất mát mối quan hệ xã hội, hạnh phúc, tâm lý phức tạp và các vấn đề tâm lý khác. Thanh niên cần phải biết cách sử dụng công nghệ một cách hợp lí để tránh các vấn đề này.

Bảy là, thách thức về việc tận dụng công nghệ: Việc tận dụng các công nghệ mới để xây dựng nền tảng kinh tế và xã hội mới là một thách thức lớn đối với thanh niên. Cần có sự hỗ trợ từ các cơ quan chức năng, chính phủ và các doanh nghiệp để giúp thanh niên có thể tận dụng các công nghệ mới này để phát triển một cách bền vững.

Tóm lại, thanh niên đang gặp phải nhiều thách thức trong việc tương tác với công nghệ và trong việc xây dựng nền tảng kinh tế và xã hội mới. Việc đối mặt và giải quyết các thách thức này đòi hỏi sự nhận thức và tinh thần trách nhiệm từ các thanh niên, cũng như sự hỗ trợ của các tổ chức, cộng đồng và chính phủ.

*Giải pháp:

Để giải quyết các thách thức được đề cập ở trên, có một số giải pháp mà các thanh niên có thể áp dụng, điển hình như:

Một là, nâng cao nhận thức và giáo dục. Thanh niên cần phải có nhận thức rõ về những thách thức của công nghệ và động lực để học hỏi và áp dụng các kỹ năng để sử dụng công nghệ một cách hợp lý. Đồng thời, các bậc phụ huynh và cộng đồng giáo dục cần có những chương trình giáo dục để giúp trẻ có được các kỹ năng và nhận thức cần thiết.

Hai là, tạo ra các sản phẩm công nghệ mới và cải tiến. Thanh niên có thể tham gia vào các hoạt động khoa học kỹ thuật nhằm tạo ra các sản phẩm, giải pháp công nghệ mới và cải tiến các sản phẩm công nghệ hiện có. Những công nghệ này sẽ giúp đáp ứng các nhu cầu khác nhau của xã hội, với sự tham gia của thanh niên, các công ty nhỏ và trung bình.

Ba là, xây dựng các chính sách hỗ trợ từ phía chính phủ và các tổ chức liên quan. Chính phủ và các tổ chức liên quan cần thiết lập các chính sách để hỗ trợ thanh niên tiếp cận và sử dụng các công nghệ mới để phát triển kinh tế và xã hội. Các chính sách cần tập trung vào việc đào tạo, tạo ra các cơ hội việc làm và cải thiện hoàn cảnh sống cho thanh niên.

Bốn là, hợp tác và đối thoại xã hội. Các thanh niên cần có kỹ năng và sự đam mê để tạo ra các mối quan hệ đối tác và hợp tác với các tổ chức và doanh nghiệp khác. Các tổ chức, doanh nghiệp và chính phủ cần tạo ra một môi trường hoạt động có thể khuyến khích và giúp đỡ các thanh niên đạt được mục tiêu của mình.

Năm là, khuyến khích sáng tạo và đổi mới. Thanh niên có thể tìm kiếm cơ hội đổi mới và sáng tạo của mình bằng cách tham gia vào các cuộc thi khởi nghiệp, tổ chức các câu lạc bộ đổi mới và sáng tạo hoặc thực hiện các dự án cá nhân.

Sáu là, phát triển kỹ năng mềm. Ngoài việc tập trung vào các kỹ năng công nghệ, thanh niên cần phải phát triển các kỹ năng mềm như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng quản lý thời gian và kỹ năng tư duy sáng tạo để có thể thích nghi và điều chỉnh các nhu cầu thay đổi của công việc và xã hội.

Bảy là, giáo dục về khởi nghiệp. Giáo dục đào tạo khởi nghiệp và kinh doanh cũng rất quan trọng để giúp các thanh niên khởi đầu một doanh nghiệp thành công trong ngành công nghệ. Tìm kiếm các hỗ trợ giáo dục từ các tổ chức và chính phủ có thể giúp thanh niên xây dựng và phát triển kỹ năng cần thiết để thành công trong lĩnh vực khởi nghiệp.

Tám là, tìm kiếm cơ hội học hỏi mới. Thanh niên cần không ngừng học hỏi và cập nhật các kiến thức và kỹ năng mới để thích nghi với sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ. Họ có thể tìm kiếm các khóa học trực tuyến, các khóa học miễn phí hoặc tham gia các khóa đào tạo chính thức để nâng cao trình độ của mình.

Tóm lại, giải quyết các thách thức mà thanh niên đang gặp phải cần sự hợp tác và tích cực tham gia của tất cả các tổ chức, cộng đồng và chính phủ. Các thanh niên cũng cần có ý chí và nhận thức cao, cũng như kỹ năng và sự đam mê để tận dụng và phát triển công nghệ để xây dựng một xã hội phát triển, bền vững và hạnh phúc.

*Kiến nghị:

Từ những thách thức và giải pháp tác giả đặt ra ở trên, để thực hiện được các giải pháp  được tốt vượt qua các thách thức rào cản. Tác giả có một số kiến nghị đề xuất với Chính phủ và Trung ương Đoàn như sau:

Kiến nghị 1: Tổ chức các chương trình giáo dục và đào tạo cho thanh niên nhằm phát triển các kỹ năng cần thiết để sử dụng công nghệ một cách hợp lý và áp dụng công nghệ để xây dựng kinh tế và xã hội mới. Tổ chức các khóa học và đào tạo tiền tiến của công nghệ cao để giúp thanh niên cập nhật các kỹ năng công nghệ mới nhất, giúp họ có thể đáp ứng được những nhu cầu thay đổi của xã hội, giải quyết được các vấn đề phức tạp và xây dựng các sản phẩm và dịch vụ mới.

Kiến nghị 2: Tạo ra các chính sách hỗ trợ thanh niên: các chính sách trong việc tiếp cận và sử dụng các công nghệ mới nhằm giúp thanh niên phát triển các kỹ năng công nghệ, tăng cường cơ hội việc làm và cải thiện hoàn cảnh sống. Đưa ra các chính sách và cơ chế hỗ trợ tài chính cho các thanh niên để khởi động các doanh nghiệp công nghệ, tạo ra các sản phẩm mới và cải tiến sản phẩm hiện có. Xây dựng các chính sách và các cơ chế hỗ trợ để giúp các tổ chức và doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển các sản phẩm và giải pháp công nghệ mới.

Kiến nghị 3: Tăng cường giáo dục về khởi nghiệp và cung cấp hỗ trợ cho các thanh niên khởi nghiệp trong ngành công nghệ. Tổ chức các hoạt động thúc đẩy sáng tạo và đổi mới công nghệ nhằm khuyến khích thanh niên tham gia vào các cuộc thi khởi nghiệp và các dự án cá nhân. Phát triển các sự kiện và hoạt động nhằm khuyến khích thanh niên tham gia vào các dự án, sự kiện về công nghệ để tăng cường sự quan tâm và tham gia của thanh niên vào lĩnh vực này.

Kiến nghị 4: Đưa ra các chính sách quản lý và giám sát công nghệ nhằm đảm bảo rằng các công nghệ mới được sử dụng một cách minh bạch, an toàn và có ích cho xã hội.

Kiến nghị 5: Khuyến khích thanh niên tham gia các hoạt động xã hội, tình nguyện và các chương trình đào tạo để phát triển các kỹ năng mềm và giá trị cá nhân, giúp thanh niên có thể tránh được tác động tiêu cực của công nghệ đến cuộc sống và hạnh phúc của mình.

Kiến nghị 6: Tăng cường các hoạt động tạo thêm động lực và khuyến khích của thanh niên nhằm thúc đẩy phát triển công nghệ và góp phần xây dựng một xã hội thông minh, hiện đại, bền vững và phát triển.

Tóm lại, để giúp thanh niên đối mặt với các thách thức của công nghệ và phát triển bền vững trong tương lai, Chính phủ và Trung ương Đoàn cần thiết lập các chính sách, cơ chế và các chương trình hỗ trợ phù hợp. Việc hỗ trợ thanh niên sẽ giúp đảm bảo rằng họ có cơ hội phát triển tốt nhất của mình trong thế giới đang thay đổi nhanh chóng này.

  1. Kết luận

Sự tương tác giữa thanh niên và công nghệ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng một nền tảng kinh tế và xã hội mới. Những tiến bộ trong công nghệ đã thay đổi cách thức chúng ta sống, làm việc và giao tiếp với nhau. Đặc biệt là với thế hệ thanh niên, công nghệ đã trở thành một phần không thể tách rời trong cuộc sống hàng ngày của họ.

Tuy nhiên, sự phụ thuộc quá mức vào công nghệ cũng đem đến một số hậu quả không mong muốn. Việc áp dụng quá nhiều công nghệ vào cuộc sống có thể gây ra một số vấn đề như mất quyền riêng tư, ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần và thể chất của con người.

Do đó, cần có một sự cân bằng giữa sử dụng công nghệ và giữ gìn sức khỏe tinh thần và thể chất. Thanh niên cần hiểu rõ về tác động của công nghệ đến cuộc sống của mình và biết cách quản lý và sử dụng nó một cách hiệu quả.

Từ các nghiên cứu và thực tế cho thấy rằng, sự tương tác giữa thanh niên và công nghệ sẽ tiếp tục phát triển trong tương lai. Sẽ có nhiều ứng dụng công nghệ mới được phát triển để phục vụ cho cuộc sống hàng ngày của con người. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo và chính phủ cũng cần có những điều chỉnh phù hợp để đảm bảo việc sử dụng công nghệ đem lại lợi ích cho cuộc sống xã hội và tránh những hậu quả không mong muốn.

Tóm lại, sự tương tác giữa thanh niên và công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng một nền tảng kinh tế và xã hội mới. Để đảm bảo sự phát triển bền vững của cuộc sống và xã hội, cần có sự cân bằng giữa việc sử dụng công nghệ và giữ gìn sức khỏe tinh thần và thể chất của con người.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]: Greenfield, S. (2014). Mind change: How digital technologies are leaving their mark on our brains. New York: Random House.

[2]: Hội đồng Anh – British Council (2020). Báo cáo Nghiên cứu Thế hệ trẻ Việt Nam

[3]: PGS.TSKH. Lương Đình Hải (2017). Cách mạng khoa học-công nghệ và tác động của nó đến con người và xã hội Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu Con người số 5(92), năm 2017.

[4]: Phạm Ngọc Tân, Tô Thị Hồng, Phạm Hồng Bắc (2021). Một số ảnh hưởng của internet, mạng xã hội đến giới trẻ: Nghiên cứu tổng quan. Tạp chí Khoa học Phụ nữ Việt Nam, Quyển 15, số 3 -2021.

[5]: Rosen, L. D., & Carrier, L. M. (2015). The benefits of Facebook “friends:” social capital and college students’ use of online social network sites. Journal of Computer-Mediated Communication, 19(4), 855-870.

 

[Lời Ban Biên tập Website]:

Bài viết là toàn văn tham luận của tác giả NGUYỄN TẤN THÀNH thuộc đơn vị Trường Đại học Giao thông vận tải TP. Hồ Chí Minh trong khuôn khổ Hội thảo Khoa học trẻ Việt Nam toàn cầu lần thứ II “Thanh niên trong bối cảnh chuyển đổi số” do Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam tổ chức vào ngày 20/9/2023 tại Thủ đô Hà Nội.

Có thể tham khảo tại: Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam. (2024). Kỷ yếu Hội thảo Khoa học trẻ Việt Nam toàn cầu lần thứ II “Thanh niên trong bối cảnh chuyển đổi số”. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.90-93.

Back To Top